NGƯỜI NUÔI LÝ TƯỞNG NHÂN SINH
THI SĨ ĐAM MÊ VĂN NGHỆ
. Phạm Trần Anh bút hiệu Phạm
Trần Quốc Việt sinh năm 1945 tại làng Cát Hạ, huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định.
Sau hiệp định Genève anh di cư vào Nam năm 1954 và trưởng thành ở Sài Gòn.
. Cựu Học sinh Trường Trung học
Nguyễn Trãi và Chu văn An từ 1956-1963.
. Thời sinh viên từng hoạt động
trong Ban Đại diện Sinh viên Y Khoa Huế, chủ bút Giai phẩm Xuân Tình Thương của
Đại học Y Khoa Huế 1964.
. Trưởng ban Tổ chức Tổng hội
sinh viên Huế chống Hiến chương Vũng Tàu 1964 của chính phủ quân phiệt Nguyễn
Khánh. Tranh đấu đòi phục hồi quyền Dân chủ bầu Quốc hội Lập hiến.
.
Giáo sư dạy giờ trường Trung học Saint Thomas Sài Gòn.
. Uỷ viên Báo chí Ban Đại diện
Sinh viên Quốc Gia Hành Chánh.
. Đoàn trưởng Đoàn sinh viên Phật
tử Xã hội 1968.
.Trung tâm trưởng Trung tâm Phan
Sào Nam cứu trợ đồng bào nạn nhân Cộng Sản tết Mậu Thân 1968.
. Chủ trương các tờ báo sinh viên
Đất Đứng, Ý Thức, Cấp Tiến và Bừng Sáng thập niên 1960.
. Ủy viên Thường vụ Tổng đoàn
Thanh niên Võ đạo Việt Nam (Vovinam).
. Tốt nghiệp Học viện Quốc Gia
Hành Chánh Khóa XIV.
. Cựu sinh viên Cao học chính trị
xã hội viện Đại học Đà Lạt.
. Ủy viên Kế hoạch Hội Cựu sinh
viên QGHC 1969-1971.
. Quản đốc Trung tâm Huấn luyện
và Tu nghiệp công chức tỉnh Quảng Nam 1969.
. Tốt nghiệp khoá 4/70 Sĩ qua Trừ
bị Thủ Đức. Trưởng ban Biên tập Nguyệt san Bộ Binh và kỷ yếu khoá 4/70.
. Phó Quận trưởng Hành chánh quận
Tam Bình Minh Đức, Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long (1970-1973).
. Trưởng ty Hành Chánh kiêm Quản
đốc Trung tâm Huấn luyện và Tu nghiệp công chức tỉnh Lâm Đồng.
. Sau ngày mất nước, ở lại Việt
Nam thành lập Mặt trận Người Việt Tự do cùng với Thi sĩ Tú Kếu Trần Đức Uyển,
nhà văn Trọng Tú.
. Bị chế độ CSVN bắt ngày 3 tháng
7 năm 1977, toà án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng buộc tội: “Tên Phạm Trần Anh là tên
phản động ngoan cố cực kỳ nguy hiểm, căm thù sâu sắc giai cấp vô sản, có kinh
nghiệm chống phá cách mạng, câu kết với các tổ chức phản động trong nước và các
thế lực phản động quốc tế nhằm lật đổ chế độ … Tòa kết án Chung thân, cách ly
khỏi xã hội”.
. Sau hai mươi năm 1 tháng tù
đày, do sự can thiệp của Tổ chức Ân Xá Quốc tế Amnesty và của Thủ Tướng Thụy
Điển, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phải trả tự do ngày 3
tháng 8 năm 1997 sau hơn 20 năm tù đầy trong đó bị cùm chân tay gần chín năm
trong xà lim.
Sau hơn 9 năm cầm giữ trong nước không
cho xuất ngoại vì “Nguy hiểm đến an ninh quốc gia”. Do sự can thiệp, ngày 2
tháng 9 năm 2006 mới sang đoàn tụ với gia đình tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này,
Phạm Trần Anh đã tìm tòi nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Việt. Đồng thời anh
cũng âm thầm cùng với Thượng Tọa Thích Thiện Minh, TT Thích Không Tánh, cư sĩ
Trần Hữu Duyên chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Phật Giáo Hòa Hảo … thành lập Hội Ái hữu
Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam do Thượng Tọa Thích Thiện Minh làm Hội
Trưởng. Sau khi mời các Linh mục Nguyễn văn Lý, Phan văn Lợi, Mục sư Trần Mai,
Nguyễn Hồng Quang, Cư sĩ Lê Quang Liêm, Cư sĩ Trần Hữu Duyên CT Ủy Ban Bảo vệ
Phật giáo Hòa Hảo, GS Nguyễn Mạnh Bảo Cao Đài làm cố vấn cho Hội, Phạm Trần Anh
mới lên đường xuất ngoại sang định cư tại Hoa Kỳ.
Trong cương vị Phó Hội Trưởng đặc trách
ngoại vụ, Phạm Trần Anh tích cực vận động công luận quốc tế và đồng bào Hải
ngoại ủng hộ các chiến sĩ Dân chủ đấu tranh cho tiến trình Dân chủ hóa Việt
Nam.
Sau ngày cộng sản Việt Nam xâm chiếm miền
Nam Việt Nam, anh làm giả lý lịch gia đình “cách mạng” để cùng với thi sĩ Tú
Kếu (Trần Đức Uyển) thành lập Mặt trận Người Việt Tự do Diệt cộng Phục quốc,
tiếp tục đấu tranh cho Tự do Dân chủ và Nhân quyền cho Việt Nam. Tháng 7 năm
1977 anh bị bắt và đưa ra cái gọi là toà án Nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử với tội
danh: Âm mưu Lật đổ chính quyền Cách mạng! Toà án CS đã kết án Chung thân với
tội danh: “Phạm Trần Anh là một tên cực kỳ phản động, ngoan cố, căm thù sâu sắc giai cấp vô sản, có
kinh nghiệm chống phá cách mạng, cấu kết với các thế lực phản động trong và
ngoài nước để lật đổ chính quyền cách mạng ...”.
Sau gần chín năm cùm chân trong xà lim và
hơn 11 năm lao động khổ sai trong các trại tù khắc nghiệt nhất của chế độ Cộng
sản, anh được sự can thiệp của Thủ tướng Thụy Điển cũng như các Hội đoàn tranh
đấu cho nhân quyền, Hội Ân xá Quốc tế International Amnesty nên chính quyền
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải trả tự do cho anh ngày 3 tháng 8 năm
1997 sau hơn 20 năm tù ngục.
Trong thời gian tù đầy, anh vẫn kiên cường
bất khuất kiên định lập trường quốc gia dân tộc nên đã bị Cộng Sản tra tấn đánh
gãy hai hàm răng, mắt bị mờ hậu quả của gần 9 năm cùm chân còng tay trong phòng
tối nên phải thay cả hai thủy tinh thể nhân tạo hiện anh đang điều trị bệnh tật
hậu quả của thời gian lao lý gần nửa đời người của anh.
TRƯỚC NGÀY MẤT NƯỚC 30 tháng tư năm 1975,
tôi có duyên gặp và quen anh ở Câu Lạc bộ Phấn Thông Vàng ở đường Nguyễn Thông
do anh Nguyễn Thùy là chủ nhiệm. Buổi tối hôm đó, trong sinh hoạt hàng tuần vào
tối thứ bảy, nhà thơ Phan Lạc Giang Đông giới thiệu tôi trình bày đề tài: “Thi
sĩ và cuộc đời”. Tôi còn nhớ như in buổi tối hôm đó có cố thi sĩ Vũ Hoàng
Chương, nhà văn Hoàng Xuân Việt, nhà văn Bùi Nhật Tiến, Hồ Trường An, nhà thơ
Tôn Nữ Hỷ Khương, Phương Đài, Hoàng Trúc Ly, Diễm Phúc, Kiêm Thêm, Huy Bằng,
Ngọc Tự, Hà Thuỷ, Lê Trường Đại, Tô Duy Khiêm, Tô Nguyệt Điền, Dương Khanh,
Định thị Thuỵ Yên, Anh Hải và Phạm Trần Anh cùng các anh chị em sinh viên, các
em học sinh các trường Bồ Đề, Nguyễn Trường Tộ, nguyễn Công Trứ đến tham dự
đông đủ …
Lúc đó tôi biết Phạm Trần Anh qua sự giới
thiệu của Trần Ngọc Tự và Phan Lạc Giang Đông nhưng chưa lấy gì làm thân lắm vì
anh cũng như các anh Hoàng Tổng, Huy Lực và Nguyễn Trọng Nho tốt nghiệp kỹ sư
sau làm dân biểu Hạ viện còn tôi là con người của văn nghệ, diễn ngâm trong
chương trình Thi văn Tao Đàn, chủ trương cơ sở xuất bản Nhân Chứng rồi làm
Trưởng ban Văn học nghệ thuật Đài Truyền hình Sài Gòn từ 1970-1975. Thế nhưng,
tôi mến mộ Phạm Trần Anh vì anh là người đam mê sôi nổi, cởi mở và thẳng thắn
rất dễ thân quen nên phải nói rằng Phạm Trần Anh là con người của đám đông của
quần chúng. Phạm Trần Anh là người có tâm hồn văn nghệ, đặc biệt trong anh còn
ấp ủ một lý tưởng dân tộc, phục vụ nhân sinh: đấu tranh cho dân chủ tự do, một
xã hội công bằng nhân ái.
Sau hơn hai mươi năm lao lý trở về, nụ
cười vẫn nở trên môi con người lúc nào cũng lạc quan yêu đời, Phạm Trần Anh đã
lặn lội đi tìm lại những bạn bè thân quen xưa cũ để hàn huyên tâm sự như không
có gì xảy ra trong cuộc đời của một con người trải qua hai mươi năm tù. Tôi
ngạc nhiên khi thấy anh không nhắc gì về một nửa đời tù của anh. Tôi hỏi, anh
cười vui rồi nói: “Chuyện nhỏ mà, mình xem nó như là một giấc ngủ trưa!”. Anh say sưa kể lại những đoạn đường chiến
binh của một chiến sĩ lao tù mà khi nghe xong thì những quần đảo ngục tù ngày
xưa tôi đọc với sự sự cảm phục ghê gớm thì bây giờ chẳng nghĩa lý gì với nơi
địa ngục trần gian mà bạn tôi và biết bao người yêu nước đã đi qua…
Nhắc lại chuyện hôm ra tòa, Anh kể trước khi
tuyên án tên chánh án hỏi tôi: Anh có nhận tội không? Phạm Trần Anh đã hiên
ngang nói trước tòa án Cộng Sản: “Tôi là người Việt Nam yêu nước chống Cộng
sản, tôi không có tội gì cả. Đối với xã hội chủ nghĩa của các anh thì tôi có
tội, các anh muốn xử gì thì xử nhưng với đồng bào Việt Nam của tôi, tôi chỉ có
tội vì chưa làm được những gì mà đồng bào tôi mong muốn. Đời tôi để lịch sử xử,
Xin đồng bào tha lỗi cho tôi ..!”.
Nói xong anh chào tay đồng bào đang ngồi
dưới hội trường Trường Nông Lâm Súc Bảo Lộc. Cả hội trường vỗ tay quên cả sợ
sệt, mấy bà mẹ Việt Nam khóc thút thít rồi cúi mặt lau nước mắt, một số người
cầm lòng không được đứng dậy bước ra ngoài, không khí xôn xao hẳn lên ngoài
tiên liệu của cộng sản khiến tên chánh án đập bàn liên hồi. Mấy tên công an
đứng cạnh anh hốt hoảng kéo xuống rồi đè ra còng tay lại. Chúng tức giận xiết
còng tay khiến tay anh sưng vù, máu bầm lại …
Trên đường giải giao về trung tâm Thẩm
vấn Đà Lạt, Tú Kếu nhìn anh có vẻ thương hại nói: Bác có chống án không? Anh trả lời: “Không, dứt khoát là không vì
mình có công nhận toà án cũng như chế độ nó đâu mà chống với không chống án
...”. Tú Kếu nhe răng ra cười: “Bác nói phải, chí phải. Tôi tưởng bác bị tử
hình thì bác không chống tôi cũng chống để kéo dài thời gian ra may cứu được
bác. Còn bây giờ thì không dứt khoát là không”. Anh xúc động vì bạn mình
hiểu và thương mình, anh cười nói với anh em:
“Chuyện nhỏ mà các bạn, Mình còn là còn
tất cả, cứ xem như một giấc ngủ trưa phải không các bạn ?”. Anh em cười vui vẻ và không một ai
chống án cả. Lúc công an giải ra xe, Bà con cô bác chạy theo người nắm tay, kẻ
ném quà bánh thuốc hút đầy cả xe. Bọn công an xô đuổi cũng không được đành đứng
nhìn một cách bất lực. Tên trưởng đoàn bèn vội ra lệnh cho xe chạy, bà con vẫn chạy
theo, kẻ chửi người la í ới … “Ôi, những hình ảnh thân thương đó làm sao mà
mình có thể quên được...”.
Viết về Phạm Trần Anh trong các trại tù
cộng sản hơn 20 năm “Người tù lương tâm của Việt Nam”, Thượng Tọa Thích Thiện
Minh đã kể lại trong Hồi ký “Hai Mươi Sáu
Năm Lưu Đày” như sau: “Ông Phạm Trần Anh, một người anh em kết nghĩa hoặc gọi
là kết bạn vong niên. Anh tốt nghiệp Ban Đốc sự Học viện Quốc Gia Hành Chánh và
Cao học Chính trị xã hội đã từng giữ chức vụ Phó Quận Trưởng, Quản Đốc, Trưởng
Ty Hành Chánh tỉnh Lâm Đồng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Ông có tấm lòng rộng
rãi tốt bụng, hay giúp đỡ mọi người. Ông có trình độ nhận thức cao, có đầy đủ
chí khí và tinh thần nhiệt huyết, phong cách bình dị, sống gần gũi anh em, rất
thông cảm với anh em đồng tù, đặc biệt là đồng bào thiểu số và những người
nghèo khổ bệnh tật. Ông thường tới lui an ủi tâm sự với những người có trình độ
thấp hoặc khốn khó bơ vơ trong tù. Ông đã từng leo rào vào thăm hỏi, ăn uống
với anh em bị bệnh lao ở trại tù Xuân Lộc mà không sợ bị kỷ luật, lây nhiễm gì
cả.
Dù biết rằng trong cuộc đời
là ”Nhân vô thập toàn” ắt hẳn không ai hoàn hảo cả, bản thân tôi và ông cũng
thế. Tôi luôn luôn nghĩ rằng “Nhân tận kỳ tài”, mỗi người sinh ra trên đời đều
có một tài năng riêng nhưng chưa biết đúng chỗ phát huy. Tôi hy vọng mọi việc
hanh thông sẽ dành phần cho người tốt như ông. Ông Phạm Trần Anh đối với tôi có
4 điểm, anh vừa là người anh kết nghĩa, vừa là người bạn đồng tù cùng chí
hướng, vừa là một Phật tử rất kính trọng thầy tu, lại vừa là mạnh thường quân
giúp đỡ tôi rất nhiều trong những tháng năm tù đày nghiệt ngã.
Trải qua nhiều năm dài, ông
luôn luôn giữ trọn tình trọn nghĩa, tôi vô cùng trân trọng. Mặc dầu, ngày được
trả tự do anh gặp nhiều nghịch cảnh éo le.
Thời gian tù đày, người vợ vượt biên sang nước khác, nay đã không còn
sống với ông nữa. Khi ông trở về hoàn toàn cô quạnh, sự nghiệp trắng tay và
phải tự chuẩn bị cho mình một cuộc sống mới, chắc chắn ông phải đương đầu hoặc
ẩn nhẫn với một xã hội có nhiều định kiến. Tôi luôn luôn tin tưởng một người có
nghị lực và ý chí mạnh mẽ như ông sẽ vượt qua tất cả những khúc khuỷu gập ghềnh
của cuộc đời. Trước nhất cần phải giữ “Nhẫn nhục phụ trọng”, chịu đựng cảnh
“Nghịch thủy hành châu” để một ngày không xa sẽ tận hưởng “Khúc chung tấu nhã”.
Tôi luôn khắc ghi những tình cảm tốt đẹp của ông trong tâm khảm của mình nên
ghi tên ông đầu tiên trong những ân công của tôi trong tập hồi ký này …”.
Phạm Trần Anh kể lại với tôi rằng ngày trở
về: “Tôi mỉm cười như tự nói với lòng
mình “Một giấc ngủ trưa thế mà dài cả 20
năm trời ...”. Tôi còn nhớ hôm anh
em văn nghệ sĩ Sài Gòn tham dự buổi tiệc đưa nhà văn Uyên Thao đi Mỹ, nhà thơ
Lê thị Kim đến hỏi tôi:“Anh Đức, anh Phạm
Trần Anh đâu?”. Tôi chỉ bạn tôi, nhà thơ Lê Thị Kim chạy tới nắm chặt tay
Phạm Trần Anh và nói: “Cho Kim được bắt
tay người tù bất khuất hai mươi năm ...!”. Câu nói của người đẹp khiến tôi
sực nhớ tới giấc ngủ trưa, vâng một giấc
ngủ trưa của Phạm Trần Anh dài hơn 20 năm gần nửa đời người...
Sau khi đi tù về anh dành hết thời gian còn
lại để hoàn thành công trình biên khảo lịch sử tìm về cội nguồn Việt tộc: Việt
Nam, Đất Nước và Con Người gồm:
1. Nguồn Gốc Việt Tộc(1999).
2. Việt Nam Thời Lập Quốc (2000).
3. Việt Nam Thời Vong Quốc
(2001).
4. Việt Nam Thời Độc Lập (2002).
5. Quốc Tổ Hùng Vương(2003).
6. Huyền Tích Việt (2004).
7. Sử Thi Đại Việt Nam (2005).
8. Còn Một Chút Gì (Thơ).
Ngoài công trình nghiên cứu tìm về nguồn
cội dân tộc, Anh còn góp mặt trong các Tuyển tập Duyên Thơ (1999), Hương Tình Yêu
(2000), Tiếng Thơ (2001), Về Nguồn (2002), Tri Kỷ Hành (2003), Dáng Thơ (2004)
Hương Quê (2005).
Chúng tôi gặp lại nhau sau 28 năm xa
cách, hai anh em ngồi nhắc nhớ những kỷ niệm một thời ở câu lạc bộ Phấn Thông
Vàng, nhớ tới anh em thân hữu, bạn bè kẻ còn người mất !!! Một nỗi buồn lắng
đọng tâm tư, cả hai không hẹn mà cùng buông tiếng thở dài ... Tôi chợt nhớ tới
cái anh chàng lãng tử dạo nào ở Sài Gòn với cuộc sống lãng du, một tâm hồn lãng
đãng dễ thương làm thơ hay ra phết và cô bé Trinh ngày đó, mỗi lần lên hát cũng
lại bổn cũ soạn lại: “Con đường xưa em
đi, người ta mắc dây chì thế là em hết đi …” giờ này chắc cũng làm bà ngoại bà
nội rồi còn gì ..!?.
Phạm Trần Anh bây giờ đã bỏ Sài Gòn lên
Lái Thiêu làm vườn nói là đào ao nuôi cá, vui thú điền viên để thư giãn tinh
thần nhưng thực ra là để dồn hết tâm sức vào đam mê mới là tìm về nguồn gốc dân
tộc, từ truyền thuyết tới hiện thực lịch sử. Tôi thắc mắc vì cả nhà anh đã ở
bên Mỹ mà bây giờ trở về vẫn ở lại đây để cho công an theo dõi khó dễ đủ điều.
Anh tâm sự với tôi là anh không thích đi Mỹ dù có điều kiện để đi vì sống ở đâu
cũng không bằng ở quê hương mình dẫu cho khó thương, nói theo bài hát của nhạc
sĩ du ca Nguyễn Đức Quang. Tôi ngầm hiểu ẩn ý sau câu nói của Phạm Trần, tôi
hiểu thương và nể phục quyết định ở lại Việt Nam của bạn tôi. Phạm Trần Anh tâm
tình với tôi là: “Bây giờ bà cụ đã hơn
tám mươi tuổi rồi và cũng đã lẫn rồi, lúc nhớ lúc quên. Bạn cũng hiểu tính tôi
mà, tôi không có ý định rời bỏ quê hương mà không đi thì lỗi đạo làm con mà đi
thì bị khó khăn ngãng trở đủ điều. Thôi thì việc đời hơi đâu mà lo, cái gì tới
nó sẽ tới thế thôi ...”.
Thật vậy, theo lời kể lại của Phạm Trần thì
trước khi ra tù, một Đại tá cục an ninh của nhà nước cộng sản đến gặp và yêu
cầu viết một tờ cam đoan là sau khi được tự do sẽ không chống đối chính quyền
CHXHCNVN nữa. Anh không chịu cam kết và chỉ viết: “Kể từ ngày 3 tháng 8 năm
1997, dù muốn dù không tôi cũng là công dân của cái gọi là nhà nước cộng Hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nếu tôi làm bất cứ điều gì chống lại chính quyền thì cứ
việc truy tố theo pháp luật của nhà nước CHXHCNVN thế thôi”. Sau khi anh không viết, tên đại tá
nói: “Tuy ông được tự do nhưng ông nên
nhớ là chúng tôi theo sát ông từng giờ từng ngày, đừng có hòng qua mặt chúng
tôi. Tôi nói thẳng là tinh mạng của ông nằm trong tay chúng tôi. Ông có đi Mỹ
được hay không cũng do chúng tôi quyết định. Tuy ông có hồ sơ đi Mỹ nhưng chúng
tôi vẫn có cách để giữ lại nếu chúng tôi thấy ông là đối tượng nguy hiểm bất
lợi cho chúng tôi ...”.
Khi về lại Sài Gòn theo thủ tục phải
trình diện địa phương, công an thành phố cũng bổn cũ lập lại là yêu cầu anh cam
kết đủ điều, anh từ chối dứt khoát dù biết rằng sẽ phải đương đầu chấp nhận mọi
khó khăn cản trở từ chính quyền cộng sản. Đầu tiên là vấn đề hộ khẩu, anh cũng
đi làm nhưng thiếu giấy tờ chứng minh đã từng cư ngụ ở Sài Gòn nên bị từ chối.
Anh nói với công an thành phố là: “Tôi đã
làm đầy đủ thủ tục qui định, nếu cơ quan công an khó dễ là do chế độ cộng sản
chủ trương mà thôi. Từ ngày mai, tôi sẽ không làm bất cứ thủ tục nào nữa. Tôi
lên làm vườn trên Lái Thiêu, chỗ đó hẻo lánh các anh tha hồ mà tổ chức gây án
hình sự cướp bóc giết người để sát hại tôi”. Tên Trung tá vội thanh minh
thanh nga nhưng cũng hàm ý đe dọa “Nhà
nước không hề có chủ trương đó, ông cứ yên tâm tôi đảm bảo với ông là không có
chuyện đó nếu ông không chống lại nhà nước ...”.
Anh nói với tôi là anh hiểu rõ là cộng sản
lúc này phải dùng đối sách mềm dẻo “Mềm nắn rắn buông” để tránh những phản ứng
bất lợi cho họ nên anh cương quyết không nhượng bộ bất cứ yêu sách nào, đề nghị
nào. Anh nói thẳng phủ đầu trước những ý đồ của họ để chặn tay bọn cộng sản vốn
không từ bỏ bất cứ thủ đoạn hèn hạ nào. Một tuần sau, hội trí thức yêu nước
thành phố gửi giấy đề nghị kê khai bằng cấp để mời anh tham gia, anh cũng kê
khai nhưng phần nguyện vọng ghi rõ là tình trạng sức khoẻ đau yếu cũng như tri
thức đã lâu, thời gian tù tội lâu ngày nên chẳng còn nhớ gì cả nên không thể
tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Một thời gian sau, công an khu vực đưa giấy tờ
đến điền vào giấy tờ xin hộ khẩu rồi đi làm cái gọi là “Chứng minh nhân dân”.
Anh nói nếu mình nhượng bộ dù một chút thì dần dần sẽ bị vương mắc áp lực hoài
nên tôi cương quyết ngay từ đầu và cũng nhờ vậy mà trong suốt thời gian ở Việt
Nam tôi chẳng đi họp hành khu xóm một buổi nào, không đi bầu biếc gì và ngay
những ngày mà họ gọi là lễ lớn mà nhà anh cũng không treo cờ quạt gì. Họ biết
nhưng cứ lờ như là không có vấn đề gì xảy ra nhưng đó cũng là một trong những
lý do họ đã cản trở việc anh xuất ngoại đoàn tụ với gia đình hơn 9 năm trời.
Anh tâm sự “Mẹ tôi và cả gia đình bên Mỹ thì sợ ở lại sẽ bị Cộng Sản hãm hại nên
cứ ép phải ra đi bằng mọi giá. Lại thêm cô vợ sau này cũng muốn thoát khỏi cảnh
cộng sản o ép khủng bố, hù doạ đủ điều. Tôi cũng đành chiều ý gia đình làm lại
thủ tục xuất cảnh. Khi đến sở xuất nhập cảnh để lấy passport thì họ lại yêu cầu
cam kết là khi xuất ngoại không chống phá nhà nước, tôi cũng nói thẳng với họ
là “Các anh đã biết là ngay khi còn ở trong tù tôi cũng chẳng cam kết một điều
gì và bây giờ tôi cũng chẳng cam kết gì cả. Đi hay không là tùy các anh thế
thôi”. Thấy tôi kiên quyết thì họ
cũng phải cấp “hộ chiếu” cho có lệ. Mình cũng tưởng cộng sản hù hè mình vậy
thôi mà cuối cùng họ cũng 2 lần cản trở qua việc cấp đi cấp lại giấy chứng nhận
lý lịch 2 lần ghi phần tiền án không ghi án tiết chung thân chống cộng. Cô vợ
tôi làm đơn khiếu nại mấy năm sau lại ghi là có án chung thân vì tội danh hoạt
động lật đổ chế độ Cộng sản Việt Nam. Phía Mỹ thì họ quá biết nhưng lại trả lời
ẫm ờ là “Sở Tư pháp Thành phố cấp giấy mâu thuẫn với những điều tôi khai nên
phải check lại”. Tôi hiểu là họ muốn gì nên không tính đi nhưng nhà tôi không
chịu tiếp tục khiếu nại. Hiệu lực của giấy chứng nhận đã hết lại phải làm lại
thì họ lại ghi là tiền án không, khiếu nại lần nữa thì họ lại ghi là có án
chung thân. Sự việc cứ quẩn quanh cản trở mãi hơn 9 năm sau thì giấy tờ mới
xong. "Cuối cùng là mẹ tôi mất bên
Mỹ mà tôi vẫn chưa qua được, đành cam tội bất hiếu vậy thôi”. Tôi cười nói
với Phạm Trần Anh là “Tôi coi tử vi thấy
cái số của ông là luôn luôn phải xa gia đình và cũng do tính khí trời phú cho
ông là không giống ai, ngay từ hồi còn là sinh viên đã xác định lập trường dân
tộc nên Mỹ chẳng ưa mà Cộng sản lại càng thù ghét. Chứ nếu là người của Mỹ thì
nó bốc lâu rồi mà dễ bảo thì cộng sản nó cũng đẩy đi từ lâu rồi”. Tôi nói
tếu một câu: “Ông không nghe nghệ sĩ Ngọc
Giàu nói một câu rất ư là cải lương nhưng lại rất đúng là giày dép còn có số
huống chi là con người!”.
Bên trong con người lý tưởng đam mê cách
mạng ấy là cả một tâm hồn văn nghệ, lại có tài làm thơ. Thơ tuy ít nhưng nhưng
đi vào lòng người với các bài: Tháng bảy mưa Ngâu, Khi anh về, Chiều cuối năm
và huyền hoặc đã được các nhạc sĩ Châu Kỳ, Quốc An, Lê Thụ, Lê Hoàng, Kỳ Vân
đồng cảm phổ thơ. Thơ Phạm Trần đặc biệt
luôn hướng về Quốc Tổ thấm đậm tự tình dân tộc, thơ đấu tranh và cả thơ tình
nữa. Tôi thích bài Đối ẩm và bài “Lời thề sông núi” của Phạm Trần:
Mỗi ngày tù tội một lo âu
Bao năm mất nước bấy năm sầu
Một lòng thề nguyện cùng sông núi,
Yêu nước thương dân tới bạc đầu ...
Tôi nghĩ đời mình còn chút may mắn là
cuối đời vẫn còn những người bạn tốt. Phạm Trần Anh là một trong những người
bạn tốt hiếm hoi, hiểu, an ủi và khích lệ tôi trên con đường tiếp tục làm thơ
cho đời Khi gặp lại bạn hiền, tôi thức cả đêm dịch lại 2 câu thơ của Bùi Giáng
tặng Phạm Trần:
“Vĩnh dạ tư gia lại hà xứ,
Tàn niên tri nhữ viễn lai tình ...”
Vào đêm xưa gặp nay đâu ..
Cuối năm nghĩ lại, nhớ bao nghĩa tình!
Phạm Trần lấy làm tâm đắc đọc hai câu thơ
của đại thi hào Nguyễn Du làm trong tù diễn tả nỗi lòng thù nhà nợ nước, không
biết sợ chết là gì:
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Lục tuần lao ngục tử sinh tâm!
Phạm Trần nói, ngày xưa Đạt Ma Sư tổ thì
ngồi diện bích, ngồi nhìn tường mà tìm ra yếu quyết của võ học, còn mình thì
bất đắc dĩ nó cùm chân suốt chín năm trời, ngày hai buổi cứ nhìn trừng trừng
vào bức tường, cũng diện bích lòng không biết sống chết là gì nữa …
Quốc phá gia vong, vong quốc hận ...
Cửu niện diện bích, bất tử tâm!
Tôi thích hai câu thơ Phạm Trần dịch của
Nguyễn Du mà bất cứ ai một lần đến Huế sẽ không bao giờ quên được ánh trăng
khuya huyền hoặc trên sông Hương: Hương giang nhất phiến nguyệt, Kim cổ hứa đa
sầu!
Sông Hương một mảnh trăng trong
Nhân gian muôn thuở sầu đong vơi đầy!
Đọc thơ Phạm Trần, những ai có một mối
tình lớn của Tản Đà, một chút u hoài sẽ tâm đắc và cảm nhận như chính nỗi lòng
của mình. Thật vậy, xin một chút lắng đọng tâm tư để đồng cảm với nỗi lòng của
Phạm Trần qua những vần thơ, thơ mà rất thật, thật mà như thơ. Để thay lời kết
chương hồi ký viết về Phạm Trần Anh, xin tặng anh bài thơ kỷ niệm sau 23 năm
ngày gặp lại:
Hai mốt năm
qua trọn nghĩa tình,
Mặc ba đào
sóng gió chông chênh
Vẫn vững tay
chèo khi nước ngược,
Thuyền vẫn đến
bờ, lúc gió lên ...
Xưa nay đời
luận chi thành bại,
Ngọn bút vung
lên xoá hận thù
Hồn rượu núi sông
say Tổ quốc,
Đối mỹ nhân hề
… chí trượng phu!
Sài Gòn Lập Đông Mậu
Dần
PHỔ ĐỨC
QUỐC TỔ
Cúi đầu tưởng nhớ vua Hùng
Hồn thiêng sông núi trùng trùng uy linh
Giang sơn gấm vóc hữu tình
Hùng Vương Quốc tổ văn minh Tiên Rồng …
Mùa Giỗ Tổ 4877
CHUNG THÂN CHỐNG CỘNG
Quyết chẳng chung trời với cộng nô
Cùng nhau xây dựng lại cơ đồ
Đồng tâm quyết chí xoay lịch sử
Tám chục triệu người cất tiếng hô …
Yêu nước đâu nề vòng gian khổ
Thương dân há sợ cảnh cùm gông
Vì dân Cứu nước lời sông núi
Cả nước vùng lên diệt Cộng Nô...
Ngày Cộng Sản xử án
chung thân
3-8-1998
TÔI PHẢI SỐNG …
Buổi lễ Tưởng niệm ba mươi hai năm “NGÀY
MẤT NƯỚC” được tổ chức ở tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ, tôi đến tham dự và được
ban tổ chức mời phát biểu cảm tưởng và thay mặt các Hội đoàn, Đoàn thể đọc
Tuyên Cáo. Buổi lễ ngoài trời với đông đảo bà con đồng hương tham dự, mãi đến
gần 7 giờ tối, tôi lên tuyên đọc Tuyên Cáo lên án chế độ CS việt gian Hại dân
bán nước. Chính vì vậy, tôi không đến kịp để dự “Bữa Cơm Cay Đắng” do Tổng hội
cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh và thân hữu tổ chức. Mục đích buổi họp mặt
này chính là để anh em tâm tình, nhắc lại những buồn vui để chung lòng chung
sức tiếp tục công cuộc đấu tranh giải thể chế độ cộng sản mang lại tự do dân
chủ hạnh phúc thực sự cho hơn 84 triệu đồng bào Việt Nam. Tôi còn nợ anh em vì
đã đến không kịp nên phải viết một bài về chuyện tù, thơ tù để đăng trên tạp
san Hoài Bão và báo Thời Luận để tạ lỗi với anh em. Khi đặt bút viết, ý nghĩ cứ tuôn trào nên mới
chọn những bài thơ tù "Đứt Ruột" của những tù nhân bất khuất để gửi
đến quí vị...Vâng, tôi xin tản mạn đôi điều tâm tình về những ngày tháng lao tù
đày ải trong các trại tù của Cộng sản. Đây không phải là hồi ký nên nhớ đến đâu
viết đến đó, không có đầu đuôi gì, xin quí vị thông cảm mà đại xá cho ...
Khoảng tháng bảy năm 1978, tôi
được mở cùm chân còng tay đi “làm việc”[1]
với Viện Kiểm sát nhân dân để kết cung ra tòa. Sau một thời gian dài nằm
trong ngục tối, bị cùm còng đói ăn khát uống lại nếm đủ mùi vị kỹ thuật khai
thác cung cán của những tên cộng sản chuyên chính dày dạn kinh nghiệm tra khảo
nên khi vừa bước ra ngoài xà lim, người tôi lảo đảo phải dựa vào tường mấy phút
mới đứng vững được. Cô công an dẫn tôi tới một căn phòng, vừa bước vào tôi thấy
một người mặt mày nhẵn bóng, bận đồ vest đàng hoàng nhưng lại ngồi chồm hổm
trên ghế, để lộ cả đôi bí tất chân cao chân thấp. Thấy tôi bước vào phòng, y
vội bỏ chân xuống, đưa mắt nhìn cô thư ký như trách móc sao không gõ cửa báo
trước để tôi nhìn thấy cảnh ngồi chồm hổm kiểu ngồi nước lụt này. Bắt đầu “khúc
dạo đầu” là màn hỏi thăm sức khoẻ rồi gợi tới tình cảm gia đình, mẹ già vò võ,
vợ dại con thơ rất ư là bài bản. Tuy biết là tên cáo già này nhắc tới những
tình cảm thân thương ruột làm mình mềm yếu tình cảm để mình “thành khẩn khai
báo”, thế mà tôi thấy mình như chựng lại, tự nhiên thấy xót xa rồi lòng mình
mềm nhũn... Tên cán bộ ngồi nước lụt này có vẻ đắc ý nên y nói giọng nhân nghĩa
nào là “Cán bộ ở đây đối xử với anh có
tốt không? Có ai đánh đập anh không? Nghiên cứu hồ sơ tôi thấy anh còn ngoan cố
chưa thành khẩn nhận rõ tội lỗi của mình. Nếu anh thành khẩn khai báo, thì khi
ra toà tôi sẽ tha tội chết cho, may ra còn có ngày về đoàn tụ với mẹ và vợ con
anh …”. Đến đây thì tôi chịu không nổi nữa, tôi cũng muốn kết thúc một lần
cho xong nên phản ứng liền: “Anh đừng giả
vờ giả nhân giả nghĩa nữa, chính anh ra lệnh đánh tôi chứ ai. Anh không cần nói
nhiều nữa, đưa tôi tờ giấy trắng tôi ký tên, khỏi cung với cán gì nữa ...”. Tên
viện kiểm sát tức giận đập tay xuống bàn rồi bỏ đi ra khỏi phòng …
Khi
tên kiểm sát vừa bước ra khỏi phòng, cô bé thư ký bước vội tới nắm lấy vai tôi
nói vội: “Tại sao chú lại nói vậy, chú có
biết ông này... thằng này nó giết bao nhiêu người rồi không? Chú phải sống ...”.
Nói xong như lỡ lời, cô bé trở về chỗ ngồi nhìn tôi bằng đôi mắt ái ngại... Tôi
cũng ngạc nhiên trước thái độ của cô thư ký “Cộng Sản” giàu lòng nhân ái này,
hình ảnh bộ mặt hốt hoảng của cô bé theo tôi mãi cho đến bây giờ, xin cảm ơn
người cán bộ “ba mươi” còn lại chút tình người này...
ĐÒN THÙ PHỦ ĐẦU
Tôi bị bịt mắt hai tay còng quặt ra sau
lưng rồi hai tên công an đi kè hai bên đẩy tới trước, mình đi theo như một cái
xác không hồn. Không biết cuộc đời sẽ đi về đâu, một ý nghĩ chợt loé lên “Đã tới nước này rồi thì kệ nó tới đâu thì
tới, chết là cùng chứ gì ...”. Vừa bị đẩy vào phòng thì nghe tiếng quát,
giọng Bắc kỳ đặc sệt: “Địt Mẹ mày, giờ
này mà còn phản động… để tao xem gan mày to bao nhiêu mà dám chống lại chúng
ông, úp mặt vào tường, khẩn trương lên ...”. Bất thình lình một báng súng
như trời giáng vào lưng, đau nhói tá hoả tam tinh. Chưa kịp hoàn hồn thì những
cú đấm, cái đá dồn dập, tôi lảo đảo té xấp vào tường không biết gì nữa...
Đêm xuống cái lạnh buốt giá của hơi sắt
cùng với mùi hôi tanh xen lẫn khai khai của nước đái làm tôi tỉnh lại tự lúc
nào. Tôi thấy người ê ẩm, hai tay bị còng ra đằng trước, hai chân thò ra ngoài
cùm run lên vì lạnh, nhìn mãi cũng không nhận ra nằm ở đâu, định thần nhìn lại mới
thấy chung quanh lờ mờ khoảng hơn 2 thước vuông. Tôi chợt nhận ra là mình đang
nằm trong cái thùng sắt mà ngày xưa thường gọi là cô nếch là cái thùng đựng
hàng mà bây giờ gọi là container loại nhỏ, "tàn dư của đế quốc Mỹ đây
mà". Ban đêm thì lạnh cóng, ban ngày thì hơi nóng của cái hộp sắt kín mít
như một lò hấp người.
Hôm sau chúng giải tôi lên Trại tạm giam
Đà Lạt nguyên là trung tâm thẩm vấn của chế độ cũ. Tôi bị đẩy vào một xà lim
nhỏ khoảng 2mx1m4 và cao khoảng 2 m. Nằm ngửa chân tay xiềng xích, mắt nhìn
thẳng lên cái trần bêtông ở giữa có khoét một lỗ vừa đủ thò ra một cái bóng đèn
tròn rọi thẳng vào mắt. Tôi chợt hiểu đây chính là đòn tra tấn nhẹ nhàng cân
não làm mắt mình mỏi mệt, cộng với chính sách bao tử cho ăn cầm hơi để cho tù
đói ăn khát uống, tinh thần sẽ suy xụp để chúng dễ bề khai thác. Tôi đã chuẩn
bị kỹ lưỡng những gì chúng biết thì mình cứ từ từ khai như có vẻ “thành khẩn”
khai báo như chữ thường dùng của Việt cộng và một số chi tiết dự phòng khi bị
tra tấn thì làm như đau quá chịu không nổi phải khai ra để chúng cho là “thật”
nhưng đã được chuẩn bị trước. Quan trọng nhất là đã khai lý lịch rồi, khai điều
gì rồi thì phải nhớ nằm lòng, phải tử thủ, khai đi khai lại cũng trước sau như
một. Chứ trật hoặc thêm một chi tiết nào là đời khốn nạn liền. Chúng cứ nắm lấy
những sơ hở rồi lấy cung liên tục để moi ra cho bằng được. Khi chúng đưa ra
những lời khai của người khác là phải phủ nhận và đòi đối chất với người đó
ngay để chứng tỏ mình khai thật và cũng là cách để mình hoãn binh chi kế rồi
tính sau…
Tôi mỉm cười nhưng nằm ngửa suốt cả ngày,
mệt mỏi rã rời, bụng đói cồn cào... Cái cảm giác khó chịu nhất là mắt hoa lên,
dường như tấm đan bêtông trên trần nhà thấp lè tè như đang ụp xuống đè lên
người tôi. Cái khó chịu nhức nhối ám ảnh mà bây giờ sau mấy chục năm vẫn còn ám
ảnh, không thể nào quên nổi và cũng chẳng có ngôn từ nào có thể diễn tả được.
Thế nhưng cũng chính thời gian đó tôi làm được 4 câu thơ đầu tiên trong đời mà
tôi không bao giờ nghĩ rằng tôi lại có thể làm thơ được:
Gươm Đàn, hề nửa gánh,
Sầu cố quốc khôn khuây.
Nam nhi, hề chí khí,
Vuốt mặt, luống đoạn trường...
[1] Làm Việc: Công an dẫn giải đi lấy cung, điều tra, tra
khảo, tra tấn thì cán bộ trại tù
mở cửa xà lim gọi
tên rồi nói là đi 'Làm Việc'.