VIỆT NAM NƯỚC TÔI I
VIETNAM MY COUNTRY
NXB VIỆT NAM NGÀY MAI
AMAZON ẤN HÀNH
TÁI BẢN THỨ NHẤT TẠI
HOA KỲ 2015
BÌA & TRÌNH BÀY:
UYÊN NGUYÊN
ISBN-13:978-151757
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
KÍNH DÂNG
HỒN THIÊNG SÔNG NÚI
DÒNG GIỐNG RỒNG TIÊN
QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG LẬP QUỐC
ANH THƯ HÀO KIỆT ĐỜI
ĐỜI BẢO QUỐC AN DÂN
Sông
núi trời Nam của nước Nam
Sách
trời định rõ tự muôn ngàn
Cuồng
ngông giặc dữ vào xâm lấn
Chuốc
lấy bại vong, lũ bạo tàn…
PHẠM TRẦN ANH
cẩn dịch
Nhớ
xưa Quốc Tổ dựng nền
Ngàn
năm văn hiến sử thiên anh hùng
Bọc
điều trăm họ thai chung
Đồng
bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam!
PHẠM TRẦN ANH
DI CHÚC MUÔN ĐỜI !
“Các người chớ quên, chính nước
lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một
đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Quốc. Chớ coi
thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải mà ta phải nghĩ tới chuyện khác lớn
hơn là họ không bao giờ tôn trọng biên giới quy ước. Họ cứ luôn luôn đặt ra
những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm
nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng
thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn: Một tấc đất của
tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác...
Ta muốn lời nhắn nhủ này như một
di chúc cho con cháu muôn đời sau. Quá khứ là gốc rễ của tương lai, rễ càng đâm
sâu thì cây mới vững vàng và càng vươn cao”.
VUA TRẦN NHÂN TÔN
(1279-1293)
“Một thước núi, một tấc sông của
ta, lẽ nào có thể vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần.
Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay, lẽ
gian. Nếu ngươi dám đem một thước sông, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho
gìặc, thì phải tội tru di...”.
VUA LÊ THÁNH TÔNG
(1460-1497)
“DUY NGÃ ĐẠI VIỆT CHI QUỐC
THỰC VI VĂN HIẾN CHI BANG…”
NGUYỄN TRÃI
“CHỈ NƯỚC ĐẠI VIỆT TA TỪ TRƯỚC
MỚI CÓ NỀN VĂN HIẾN NGÀN NĂM...”
PHẠM TRẦN ANH
Cẩn dịch
“Chúng ta đều
do Tổ Tiên sinh ra, không cứ là trai gái già trẻ, không cứ là chi tộc nào, dòng
họ nào. Mọi người đều là CON RỒNG CHÁU TIÊN, từ một bào thai của mẹ Âu nên tất
cả đều từ một mẹ sinh ra các ngành các chi mà thôi.
Cành cây lớn muôn lá, gốc vốn ở rễ. Nước có nghìn dòng sông, muôn ngọn
suối, vốn có gốc từ một ngọn nguồn. Cảnh vật còn như vậy, huống chi là con người
chúng ta. Con người sinh ra đời, đời đời nối tiếp về sau, đều do các người đời
trước nuôi nấng dìu dắt vậy.
Ngưỡng mộ và tưởng nhớ Tổ Tiên, chúng ta hãy lấy việc siêng năng mà bồi
đắp cho gốc rễ. Lấy sự cần kiệm làm răn rồi tu nhân tích đức, giàu lòng thương
người hơn là chê bai ghen ghét người. Là con cháu thì chúng ta phải nối tiếp
truyền thống của Tổ Tiên, chứ lẽ nào con cháu mà lại không suy nghĩ về ý nghĩa
thâm trầm cao đẹp nói trên hay sao?.”
HOÀNG
ĐẾ QUANG TRUNG
(Nói chuyện với các bô lão
làng Vân Nội)
BÁCH VIỆT TỪ
ĐƯỜNG TỘC PHẢ
Chú giải của La Sơn Phu Tử
“Độ luợng
bao dung, khoan hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của
phương Nam, người quân tử ứng xử như vậy... Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo
mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo hành động
như thế”.
KHỔNG PHU
TỬ
“Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông hun đúc,
trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất”.
HÁN HIẾN
ĐẾ (189-220)
“Việt tuy
gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy...”.
TƯ MÃ
THIÊN
"Người
trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu nước, yêu nhà,
mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã-hội
của Tổ tiên đã xây dựng nên mà để lại cho mình".
TRẦN TRỌNG
KIM
(Việt Nam Sử Lược)
“Một việc
phi thường mà không một sử gia nào có thể giải thích được một cách thỏa đáng,
mặc dầu đã nghiên cứu rất nhiều là tại sao sau hơn 1 ngàn năm bị đô hộ, dân tộc
Việt Nam vẫn không bị đồng hóa và Việt Nam vẫn giành lại nền độc lập dân tộc”.
G.
BUTTINGER
(The smaller Dragon, NewYork, Praeger 1958)
“Người
Việt đã bao nhiêu thế kỷ chịu ảnh hưởng của văn minh Hán Hoa, đã ăn sâu vào cá
tính và có thái độ cho rằng mình thua kém, chỉ thu thập văn minh và văn hóa
Trung Quốc mà không tin rằng, văn hóa Trung Quốc thật sự đã nhận được sự đóng
góp đáng kể từ các dân tộc Bách Việt ở phương Nam. Những nếp sống văn hoá này
đem vào Trung Hoa thời Tiền sử mang yếu tố “Biển” rõ rệt và có thể mô tả bằng
một chữ, đó là chữ “VIỆT” mà trước kia thường gọi sai lầm là Thái cổ (ProtoThai).”
Tôi xác định chữ Việt nay là quốc hiệu của một nước vùng Đông Nam châu Á: Nước
Việt Nam. Sự thật bị che phủ hàng ngàn năm cùng với ảnh hưởng của ngàn năm
thống trị nô dịch văn hóa khiến ngay cả người Việt cũng ngỡ ngàng, không tin đó
là sự thật …”.
J. NEEDHAM
“Ngay từ ngày lập quốc, tất cả then chốt của
lịch sử Việt Nam đều ở cái tinh thần đối kháng kết hợp một cách kỳ lạ, một bên
là năng lực đồng hoá lạ lùng, bên kia là ý chí quật khởi quốc gia không chịu
khuất phục mặc dầu bị thua trận, bị phân tán, bị chinh phục. Hơn một ngàn năm
bị sát nhập hoàn toàn vào Trung Quốc, từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên đến
thế kỷ thứ mười sau kỷ nguyên, thay vì làm cho dân tộc Việt Nam kiệt quệ thì
ngược lại đã làm cho dân tộc Việt trở nên hùng cường... Việt Nam đầy rẫy những
triết gia hiểu biết theo nghĩa là những con người có chiều sâu tư tưởng, biết
suy nghĩ trăn trở. Càng về đồng quê, thôn cùng xóm vắng thì càng nhiều, đó là
xã hội lý tưởng của Platon mơ ước đã hiện thực ở Việt Nam từ lâu rồi” .
PAUL MUS
LỜI NÓI
ĐẦU
Mỗi
dân tộc đều có những truyền kỳ lịch sử được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào
dân tộc mang tính sử thi của mình. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về ngọn
nguồn huyết thống Việt tuy đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện
thực, thấm đậm nét nhân văn của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Huyền sử con
Rồng cháu Tiên là niềm tự hào của nòi giống Việt. Đã là người Việt Nam thì từ
em bé thơ ngây đến cụ già trăm tuổi, từ bậc thức giả uyên bác đến bác nông dân
suốt đời chân lấm tay bùn, không ai không một lần nghe truyện cổ tích Họ Hồng
Bàng. Thật vậy, ai trong chúng ta mà không biết về nguồn cội Rồng Tiên với
thiên tình sử của Bố Lạc Mẹ Âu mở đầu thời kỳ lập quốc của dòng giống Việt.
Truyền
thuyết Việt Nam nói đúng hơn, là truyền kỳ lịch sử Việt Nam được hư cấu dưới
lớp vỏ huyền thoại nhưng thực chất dựa trên sự thật lịch sử được hư cấu như một
huyền tích trong đó đề cao con người với ý nghĩa nhân bản truyền thống. Truyền
thuyết Việt Nam biểu trưng một triết lý văn hoá cao đẹp không những thấm đậm
tính nhân đạo, chan chứa vẻ nhân văn, mà còn tràn đầy tình đồng bào, nghĩa ruột
thịt qua hình tượng “Bọc điều trăm trứng nở trăm con”. Từ ý niệm đồng bào dẫn
đến lòng yêu nước, thương nòi, yêu quê cha đất tổ, tất cả đã trở thành giá trị
đạo lý truyền thống của nền văn minh đạo đức Việt Nam. Henri Bernard Maitre một
nhà Việt Nam Học đã ca tụng nét đẹp văn hiến của Việt tộc qua đền thờ Văn Miếu:
“Văn Miếu không phải để cầu kinh hay làm
bùa phép mà là nơi trang trọng ghi ơn các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn
hoá, các vị Tiến sĩ với những chuẩn mực đạo đức để con cháu đời sau ghi sâu vào
tâm khảm bài học về đạo làm người Việt Nam, xứng đáng với hoài bão của Tiền
Nhân”.
Đối
với người Việt, việc thờ cúng Ông bà Tiên tổ là đạo lý làm người trong đời sống
tâm linh của người Việt. Từ xa xưa người Việt coi trọng đạo nghĩa nên thường
nghĩ tới ngày giỗ của người thân hơn là chú trọng đến ngày “sinh nhật” của
mình. Ngày nay, dù giới trẻ quan tâm nhiều đến ngày sinh nhật nhưng cũng không
quên những ngày kỵ giỗ người thân trong gia đình. Đạo thờ cúng ông bà là một
“Việt Đạo” thể hiện đạo lý làm người Việt Nam. Linh mục Cadière một Thừa sai
ngoại quốc đến Việt Nam truyền giáo phải thốt lên: “Việt Nam là một dân tộc có tinh thần tôn giáo cao độ.”.
Học
giả P. Mus nghiên cứu về Việt Nam cũng thừa nhận rằng “Dân tộc Việt có một đời sống tâm linh cao, người Việt không làm việc,
họ tế tự”. Thật vậy, người ngoại quốc ngạc nhiên khi thấy “Mỗi gia đình Việt Nam là một nhà thờ, nhà
nào cũng có bàn thờ gia Tiên ở chính giữa nhà. Trong đời sống tâm linh Việt,
Nhất cử nhất động, việc gì cũng tràn đầy tính chất thiêng liêng, thờ phượng, tế
lễ, cúng giỗ với tất cả tấm lòng chí thành… Người Việt không tham dự vào các
buổi lễ để được ban phát ân sủng, mà họ hiệp thông cầu nguyện như một người “Tư
Tế” với tất cả tính chất thiêng liêng của một tôn giáo”. Đây chính là điểm đặc thù độc đáo thấm đậm
bản sắc dân tộc, tràn đầy vẻ nhân văn của triết lý văn hoá nhân chủ Việt Nam.
Trong đời sống tâm linh Việt không chỉ hiển hiện ở bàn thờ Gia Tiên mà đền thờ
ngự trong tâm thức mỗi người. Điều này thể hiện giá trị cao đẹp đặc trưng đời
sống tâm linh của người Việt cổ.
Thờ
cúng tổ tiên chính là đạo lý làm người, là cái gì thiêng liêng cao cả truyền từ
đời này sang đời khác. Chính dòng sống tâm linh này đã góp phần bảo tồn dòng
giống Việt. Truyền thống thờ cúng ông bà không còn là một tập tục, một tín
ngưỡng đơn thuần mà đã trở thành đạo lý của dân tộc. Thờ cúng ông bà được xem
như Tổ Tiên chính giáo của đạo làm người Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu một sĩ
phu yêu nước thế kỷ XIX đã ân cần nhắc nhở “Thà đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn
sáng mắt ông cha không thờ”. Người Việt Nam ai cũng biết uống nước phải nhớ
nguồn vì “Công cha như núi Thái Sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn đạo
hiếu mới là đạo con...” và “Ơn cha mẹ
thề không lỗi đạo, Thờ sống sao thờ thác làm vầy. Công cha nghĩa mẹ xưa nay,
Con nguyền ghi nhớ thảo ngay một lòng”.
Đây
chính là điểm độc đáo của dòng sống tâm linh Việt vẫn tiếp nối truyền lưu trong
mỗi con người Việt Nam chúng ta hôm nay và mãi mãi về sau. Thật vậy bên cạnh
đời sống thực tế khổ đau trước mắt, vẫn hiển hiện một đời sống tâm linh sâu
thẳm, thấm đậm tính nhân bản hiện thực cao đẹp. Chính dòng sống tâm linh đó đã
tạo cho mỗi người Việt Nam một quan niệm sống lạc quan yêu đời, an nhiên tự tại
nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh mạng sống cho nền độc lập thực sự, quyền tự do thực
sự và sự ấm no hạnh phúc thực sự cho toàn dân Việt Nam.
Lịch
sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm từ khi lập quốc đến ngày nay với gần một
ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ
nô dịch chủ nghĩa vô thần, Hán hóa dân tộc. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán
tộc bành trướng với ưu thế của một nước lớn đất rộng người đông cùng với những
thủ đoạn thâm độc quỷ quyệt xóa đi mọi dấu vết cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch
sử khiến thế hệ sau chỉ biết tìm về lịch sử trong cái gọi là “Chính Sử” của đế
quốc “Đại Hán”. Mỗi một triều đại Hán tộc đều chủ tâm thay đổi địa danh, thủy
danh xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh hưởng nặng nề của gần một ngàn năm nô
dịch văn hóa khiến nhiều người chấp nhận tất cả như một sự thật mà không một
chút bận tâm. Thế nhưng dưới ánh sáng của chân lý khách quan trước thềm thiên
niên kỷ thứ ba của nhân loại, lịch sử vẫn là lịch sử của sự thật dù bị vùi lấp
hàng nghìn năm bởi lớp bụi của thời gian cũng như bị sửa đổi, bóp méo, xuyên
tạc bởi sức mạnh của Hán tộc thống trị.
Bước
sang thiên niên kỷ thứ ba, ánh sáng của sự thật soi rọi vào quá khứ bị che phủ
hàng ngàn năm bởi kẻ thù Hán tộc bành trướng. Trước đây, nhân loại cứ tưởng tất
cả nền văn minh Tây phương là của Hy Lạp La Mã, để rồi phải xác nhận nền văn
minh đó đến từ nền văn minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại
lại ngỡ ngàng khi thấy rằng cái gọi là nền văn minh Trung Quốc lại chính là nền
văn minh của đại chủng Bách Việt.
Vấn đề
đặt ra cho chúng ta là phải nhìn lại toàn bộ lịch sử Việt để phục hồi sự thật
của lịch sử để xóa tan đám mây mờ che lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào
chịu nhiều mất mát trầm luân như dân tộc Việt với những thăng trầm lịch sử,
những khốn khó thương đau. Ngay từ thời lập quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với
sức mạnh của tộc người du mục đã đánh đuổi Việt tộc phải rời bỏ địa bàn Trung
nguyên Trung Quốc xuống phương Nam để rồi trụ lại phần đất Việt Nam bây giờ.
Trải qua gần một ngàn năm đô hộ, với chiến thắng Bạch Đằng Giang năm 938 của
Ngô Quyền mới chính thức mở ra thời kỳ độc lập của Việt tộc.
Trong
suốt trường kỳ lịch sử, tuy bị Hán tộc xâm lấn phải bỏ trung nguyên xuống
phương Nam nhưng nền văn hóa của Việt tộc đã thẩm nhập vào đất nước và con
người Hán tộc để hình thành “Cái gọi là văn minh Trung Quốc”. Chính sử gia
chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên đã phải thừa nhận một sự thực là: “Việt tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã
có đại công đức với muôn dân vậy...”.
“Vạn thế sư biểu, Người Thầy muôn đời” của Hán tộc là Khổng Tử đã phải
ca tụng nền văn minh rực rỡ, xác nhận tính ưu việt của nền văn minh Bách Việt ở
phương Nam. Trong sách Trung Dung Khổng Tử đã viết như sau: “Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa,
không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử ứng xử
như vậy… Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức
mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo hành động như thế!”
Trong
kinh “Xuân Thu”, Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp cha giết con, con
giết cha, cha cướp vợ của con, con cướp vợ của cha, anh chị em dâm loạn với
nhau, bề tôi giết chúa... Điều này chứng tỏ Hán tộc du mục vẫn còn dã man mạnh
được yếu thua, bất kể tình người, bất kể luân lý đạo đức. Thế mà chính sử Trung
Quốc cứ vẫn miệt thị Việt tộc là man di, các Thứ Sử Thái Thú Hán vẫn lên mặt
giáo hóa dân Việt trong khi Bách Việt ở phương Nam đã đi vào nền nếp của văn
minh nông nghiệp từ lâu. Chính vì vậy, “Vạn Thế Sư Biểu” của Hán tộc là Khổng
Tử đã phải đem những nghiên cứu, sưu tập, học hỏi tinh hoa của nền văn minh
Bách Việt phương Nam đặt để thành những tôn ti trật tự, những giá trị đạo lý để
giáo hóa Hán tộc du mục. Tất cả năm bộ Kinh Điển, “Ngũ Kinh” được xem như tinh
hoa của Hán tộc đã được chính Khổng Tử xác nhận là ông chỉ kể lại “Thuật nhi
bất tác”, chép lại của tiền nhân chứ không phải do Khổng Tử sáng tác.
Ngày
nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi khi giới nghiên cứu đều xác nhận hầu hết
các phát minh gọi là văn minh Trung Quốc, từ nền văn minh nông nghiệp đến văn
minh kim loại, kỹ thuật đúc đồng, cách làm giấy, cách nấu thủy tinh, cách làm
thuốc súng, kiến trúc nóc oằn mái và đầu dao cong vút... tất cả đều là của nền
văn minh Bách Việt. Chính Hán Hiến Đế, vị vua cuối cùng của triều Hán đã phải
thừa nhận như sau: “Giao Chỉ là đất văn
hiến, núi sông hun đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt
xuất”.
Bước
sang thế kỷ XX, dân tộc Việt chưa tháo gỡ được cái ách thống trị của thực dân
Pháp thì chủ nghĩa Cộng Sản đã tràn vào Việt Nam đưa dân tộc Việt vào thế khốn
cùng. Cộng Sản Việt Nam đã núp dưới chiêu bài giải phóng dân tộc để bành trướng
chủ nghĩa Cộng Sản, tạo cơ hội cho tư bản nhân danh thế giới tự do nhảy vào can
thiệp, ngăn chặn làn sóng đỏ tràn xuống Đông Nam Á. Hậu quả là hàng triệu người
đã phải hi sinh oan uổng cho một cuộc chiến vô nghĩa để rồi gần chín mươi triệu
đồng bào đang phải sống dở chết dở dưới chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân của
tập đoàn Việt gian Cộng sản, những tên “Thái Thú xác Việt hồn Tàu” bất nhân hại
dân bán nước. Với chủ trương nô dịch của cộng sản, biết bao thế hệ Việt Nam bị
nhồi nhét nền văn hóa Mác-Lê phi nhân tàn bạo mà hậu qủa là tạo ra những cỗ máy
vô hồn, những con người vô cảm lạnh lùng mất gốc, công cụ phục vụ cho chế độ.
Trong khi đó, hơn 4 triệu đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng sản trên khắp thế giới
nên thế hệ con em chúng ta ở hải ngoại phần nào bị ảnh hưởng của văn hóa ngoại
lai mang tính thực dụng, quên đi bản sắc văn hóa truyền thống Việt chan chứa
tình người. Chính vì vậy, vấn đề hết sức khẩn thiết là làm sao phải phục hoạt
văn hóa Việt, phục hưng minh triết Việt để tẩy rửa mọi ý hệ ngoại lai, mọi ý đồ
truyền bá văn hóa “Trung Quốc” đang được “những tên Thái thú mới,” “xác Việt
hồn Tàu” đang thi hành mệnh lệnh của quan thầy Trung Cộng ra sức tuyên truyền
nhồi sọ, Hán hóa dân tộc Việt.
Hơn
lúc nào hết, tìm hiểu về huyền thoại Rồng Tiên, khởi nguyên dân tộc Việt Nam
thời Lập Quốc với Quốc Tổ Hùng Vương là một yêu cầu lịch sử hết sức cần thiết.
Trong ý hướng đó, chúng tôi cố gắng tóm gọn lịch sử Việt từ thời lập quốc cho
đến ngày nay trong tác phẩm “Việt Nam Nước Tôi” để thế hệ trẻ Việt Nam hiểu rõ
tường tận lịch sử Việt Nam. Khi thế hệ con em chúng ta hiểu rõ về bản sắc văn
hoá truyền thống của dân tộc Việt, về đời sống văn hoá tâm linh Việt, về những
lễ tết, hội hè đình đám của dân tộc Việt thì thế hệ con em chúng ta sẽ thấy rõ
hơn giá trị cao đẹp của bản sắc văn hóa truyền thống nhân bản Việt. Con em
chúng ta có quyền tự hào là “Con Rồng Cháu Tiên” của một dân tộc có lịch sử lâu
đời như danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã tuyên xưng: “Chỉ nước Đại Việt ta từ trước, mới có nền văn hiến ngàn năm”.
Chúng
ta phải làm sao xứng đáng với tiền nhân, chúng ta phải làm gì để không hổ thẹn
với hồn thiêng sông núi, với anh linh của những anh hùng liệt nữ Việt Nam. Toàn
thể đồng bào trong nước và Hải ngoại cùng nắm chặt tay nhau, muôn người như một
cùng đứng lên đáp lời sông núi để cứu quốc và hưng quốc, tô điểm giang sơn gấm
vóc, xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.
Chúng
ta hãnh diện được làm người Việt Nam thuộc một đại chủng lớn của nhân loại để
ngẩng cao đầu sánh vai cùng các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân
loại. Chính niềm tự hào dân tộc sẽ thôi thúc lòng yêu nước của toàn thể đồng
bào Việt Nam chúng ta, nhất là thế hệ trẻ trong nước và Hải ngoại để vươn lên
làm một cuộc cách mạng Đại Việt Nam: “Cách Mạng Hóa - Hiện Đại Hóa Việt Nam”.
Điều kiện khách quan của lịch sử đã tạo cho dân tộc chúng ta một thế hệ trẻ có
đầy đủ tri thức thời đại để hoàn thành một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
siêu vượt, đưa đất nước chúng ta bước lên sánh vai cùng các cường quốc trong
thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Trong
ý hướng đó, quyển sách này được viết ra với một mong muốn tha thiết được giới
trẻ đón nhận với tất cả tấm lòng của một con dân đất Việt để chúng ta cùng nhau
góp phần chuyển đổi lịch sử để Cứu Quốc, Kiến Quốc và Hưng Quốc.
Tổ Quốc Việt Nam Trường
Tồn Dân Tộc Việt Nam Bất
Diệt
Việt Nam Muôn Năm
Mùa Giỗ Tổ 4.893 Việt
Lịch (2014 DL)
PHẠM TRẦN ANH
LỜI GIỚI THIỆU
Như
một nhân duyên tôi được đọc những tác phẩm cổ sử của sử gia Phạm Trần Anh, tôi
đã tìm lại “Cội nguồn của Dân tộc” cũng như của “nền Văn Minh Việt Cổ”, nền
móng căn bản dựng nước của Tổ Tiên. Cội nguồn này đã bị khống chế và đè bẹp bởi
“Văn minh Bái vật của Đại Hán”. Dòng đạo lý nguyên thủy của Việt tộc là thờ
trời thay vì thờ người như văn minh của du mục phương Bắc. Trật tự của xã hội
Việt Nam là trật tự của thiên nhiên. Sau gần một ngàn năm bị Hán tộc thống trị,
kẻ thù truyền kiếp của dân tộc đã đem cái trật tự “Quân thần” để Hán hóa dân
tộc ta bằng hình thức nô dịch văn hóa. Sự xích hoá và nô dịch văn hóa của Hán
tộc đã làm cho sinh mệnh bản thể của văn minh, văn hóa Việt bị vùi dập, lu mờ
hàng ngàn năm qua. Đây là sự mất mát khủng khiếp đã làm cho hồn dân tộc Việt
lao đao lận đận mãi cho tới bây giờ, dù biết rằng lẽ trời đất thịnh suy, suy
thịnh cùng với những thăng trầm hưng phế của lịch sử. Tôi đã đọc “Việt Nam Nước
Tôi” suốt một đêm mà lòng mình cảm thấy chứa chan hạnh phúc. Bao nhiêu câu hỏi
đặt ra mà tôi ấm ức mãi vì không tìm được lý giải khiến tôi canh cánh mãi bên
lòng đã được trình bày cặn kẽ sáng tỏ. Lần đầu tiên tôi được đọc một quyển sách
về lịch sử Việt với những lý lẽ thuyết phục nhất về nguồn cội dân tộc nên hôm
nay, tôi muốn chia xẻ với tất cả những người Việt nam yêu nước thương nòi về
nguồn cội dân tộc.
Bước
sang thiên niên kỷ thứ Ba của nhân loại, cơ duyên vận nước sắp đổi thay nên sử
gia Phạm Trần Anh đã được điểm hóa để viết những tác phẩm để phục hồi sự thật
khách quan của lịch sử, giúp cho chúng ta nhìn lại “Khuôn mặt Ngàn đời của Nòi
giống Việt” nổi trôi theo vận nước. Chính vì vậy, tác phẩm của sử gia Phạm Trần
Anh được xem như một “Quyển sách Gối đầu giường” không thể thiếu được của một
người Việt Nam yêu nước thương nòi, nhất là các bạn trẻ thanh niên sinh viên
phải tìm hiểu, nghiền ngẫm để làm hành trang trên con đường cứu quốc và kiến
quốc để “Phục Hưng” đất nước Việt Nam.
Điều
tôi tâm đắc nhất là ông Phạm Trần Anh là một người yêu nước nồng nàn, một chiến
sĩ đấu tranh cho dân chủ tự do dám hy sinh cả tính mạng mình cho dân tộc. Tấm
lòng yêu nước đến cùng cực của ông còn thể hiện trong những tác phẩm lịch sử
của ông. Thật vậy, sử gia Phạm Trần Anh đã khẳng định lập trường rõ rệt khác
với những sử gia từ Trần Trọng Kim đến Đào Duy Anh là ông “chỉ dùng chữ nhà cho những triều đại của Việt Nam vì nhà là cái gì
thân thiết nhất, gần gũi nhất, cái gì của mình nên không thể dùng chữ nhà cho
các triều đại Tầu Hán như nhà Hán, nhà Minh, nhà Thanh mà các sử gia trước đây
thường dùng bừa bãi lẫn lộn”. Điều này chứng tỏ rằng người tù bất khuất
Phạm Trần Anh không chỉ là một chiến sĩ cách mạng đã đứng lên đấu tranh lật đổ
bạo quyền Cộng sản mà ông quả thực là một nhà cách mạng ngay trong lĩnh vực
lịch sử.
Thật vậy,
do ảnh hưởng vào sách sử cũng như học vị nên từ trước tới nay, chưa một sử gia
nào dám đặt lại vấn đề, chưa dám xét lại những gì ghi chép trong sách sử dù có
thấy một vài điểm vô lý. Đối với lĩnh vực sử học, việc làm này xem như “Phạm
húy”, liều lĩnh dại dột dám phản bác chống lại những “Khuôn vàng thước ngọc”
của tiền nhân từ hàng nghìn năm nay. Thế nhưng, sử gia Phạm Trần Anh đã dám làm
điều đó để “phục hồi sự thật lịch sử, Trả
lại những gì của lịch sử cho lịch sử” làm cho mọi người phải đặt lại vấn
đề, gạt bỏ nhận định sai lầm từ trước đến nay về lịch sử của dân tộc Việt.
1. Thứ nhất là sử gia Phạm Trần Anh đã phục hồi
sự thật lịch sử về “Cái gọi là văn minh Trung Quốc” chính là nền văn minh của
Việt tộc. Học giả thời danh J Needham, một nhà Trung Hoa Học người đã nói: “Sự thật bị che phủ hàng ngàn năm cùng với
ảnh hưởng của ngàn năm thống trị nô dịch văn hóa khiến ngay cả người Việt cũng
ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật …”. Sử gia Phạm Trần Anh viết: “Ngũ Kinh không phải của Hán tộc mà chính là
của Việt tộc. Sách Trang Tử kể chuyện Khổng Tử gặp Lão Tử. Khổng Tử nói: “Khâu
này chỉ khảo cứu sâu 6 kinh là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu”. Như vậy
thời Khổng Tử bộ Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu đã có từ lâu và được gọi là
“Kinh”. Chính bộ “Trung Quốc Văn Học Sử” do “Bắc Kinh Đại học, Trung văn hệ”
biên soạn viết rõ ràng là “Tên gọi Thi
Kinh là do Hán Nho thêm vào”. Sử gia chính thống Hán tộc Tư Mã Thiên viết “Xưa kia, Thi vốn có hơn 3 ngàn bài, đến
Khổng Tử chỉ lấy 305 bài hợp với việc thực thi lễ nghĩa, đều đem phổ nhạc, cố
tìm âm hợp với nhạc Thiều, Vũ, Nhã, Tụng”. Cổ văn Thượng Thư do Lỗ Cung
Công con của Lỗ Cảnh Đế tìm thấy khi phá ngôi nhà cũ của Khổng Tử để xây cất
lại lớn hơn. Trong bức vách nhà có những sách cổ thời Ngu, Hạ, Thương, Chu,
Luận Ngữ, Hiếu Kinh đều viết bằng chữ cổ gọi là “Khoa Đẩu Tự” là lối chữ của
tộc Việt theo hình con nòng nọc. Sách Hán Thư, Thiên Văn Nghệ Chí chép “Cổ văn Thượng Thư được tìm thấy trong vách
tường nhà Khổng Tử. Khổng An Quốc, hậu duệ của Khổng Tử trước đây đã biết bộ
sách này có 29 thiên do Phục Sinh truyền, chưa kể Thái Thệ còn thừa ra 16
thiên, tính ra 45 quyển, 58 thiên không kể bài tựa... nay lại được thêm 16
quyển”. Như vậy, rõ ràng là Luận Ngữ, Ngũ Kinh có trước thời Khổng Tử và
được viết bằng lối chữ “Khoa Đẩu” là lối chữ viết theo hình dáng của con nòng
nọc của Việt tộc thời xa xưa. Lối chữ “Nòng Nọc” của người Việt cổ cùng với nền
văn hóa Hòa Bình đã lan truyền khắp Trung Đông, góp phần tạo nên những nền văn
minh cổ đại khác của nhân loại.
Thực tế lịch sử này được Hội nghị Quốc tế các
nhà Trung Hoa học trên khắp thế giới kể cả Trung Quốc và Đài Loan hội thảo về
“Nguồn Gốc Nền Văn Minh Trung Quốc” tại đại học Berkeley Hoa Kỳ năm 1978 đã
thừa nhận là “Không thể tìm ra đủ dấu vết
chứng cớ để phân biệt giữa Hán tộc và các tộc người không phải là Tàu trên
phương diện lịch sử. Giới nghiên cứu phải tìm về dấu tích văn hoá mà về văn hoá
thì Hán tộc chịu ảnh hưởng của Di Việt”. Như vậy, Di Việt làm chủ Trung
nguyên trước Hán tộc và các triều đại Thương, Chu tiếp thu văn hóa của Di Việt
ở phương Nam. Thực tế này đã được chính “Người Thầy Muôn Đời” của Hán tộc là
Khổng Tử đã ca tụng tính ưu việt của nền văn minh rực rỡ của Bách Việt ở phương
Nam. Trong sách Trung Dung Khổng Tử đã viết như sau: “Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là
sức mạnh của phương Nam, người quân tử ứng xử như vậy... Mặc giáp cưỡi ngựa,
xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường
đạo hành động như thế! ”. Chính Hán Hiến Đế cũng phải thừa nhận: “Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc,
trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất” nên sử gia chính
thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên cũng đã phải thừa nhận một sự thực là “Việt tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã
có đại công đức với muôn dân vậy...”. Ngày nay, sử gia hàng đầu của Trung
Quốc là Trương Quang Trực (Chang Kwang Chih), đã phải thừa nhận là tuy Trung
Quốc là một quốc gia lớn với một nền văn hoá lớn nhưng nó đã phải thâu nhập tinh
hoa của nhiều nền văn hoá hoá hợp lại: “Những
nền văn hoá địa phương thời tiền sử, sau khi thống nhất đã trở thành một bộ
phận của văn hoá Trung Quốc. Nguồn gốc thực sự của Hoa Hán chỉ là phần nhỏ
nhưng sau khi triều Tần thống nhất thì dân tộc cả nước thống nhất ấy là dân tộc
Trung Hoa”.
2. Thứ hai là trong lịch sử chưa một ai dám phê
bình Tư Mã Thiên, sử gia chính thống của Hán tộc, một ngôi sao Bắc Đẩu trong
lịch sử phương Đông nói riêng và cả nhân loại nói chung. Sử gia Phạm Trần Anh
là người đầu tiên đã chứng minh một cách khoa học nhất, thuyết phục nhất rằng
nhân vật Hoàng Đế mà sử gia Tư Mã Thiên viết là Tổ Tiên của nhân dân Trung
Quốc, người khai mở lịch sử Trung Quốc là không đúng sự thật: “Theo Từ Hải thì Hoàng Đế, Li Vưu (Xuy Vưu)
đều là những thị tộc trưởng nên sở dĩ có chiến tranh là để giành ngôi vị thủ
lĩnh mà thôi. Gần đây, học giả Eberhard một nhà Trung Hoa học nổi tiếng đã công
bố một sự thật là vào khoảng năm 450 TDL, một người viết sử đã đưa Hoàng Đế
nguyên là một vị thần nhỏ trong địa phận Sơn Đông lên làm vị vua đầu tiên của
Hán tộc. Nếu Hoàng Đế là một nhân vật có thật thì Đế Hoàng ở Sơn Đông phải là
người Việt cổ, hậu duệ của Thần Nông. Sơn Đông là địa bàn cư trú của Lạc bộ Trĩ
của Việt tộc mà cổ sử Trung Quốc gọi là rợ Đông Di nên vị thần Đế Hoàng chính
là người Việt cổ nhưng sử gia Tư Mã Thiên nhận là thủy tổ của người Trung Quốc
(Hán tộc) để tô điểm cho lịch sử Trung Quốc nên viết Đế Hoàng theo cú pháp Hán
tự là Hoàng Đế. Mạnh Tử xác nhận vua Thuấn là người Đông Di và từ điển Từ Hải
cũng xác định là tổ tiên và con cháu Thuấn đều được phong ở đất Đông Di. Thế mà
Tư Mã Thiên, sử quan chính thống Đại Hán lại bao biện cho rằng Thuấn bị xem là
người Đông Di vì thói quen hồi đó gọi là như thế. Luận điệu này không có tính
cách thuyết phục. Tại sao lại có thói quen gọi một người đồng chủng nhất là một
vị vua là rợ Đông Di? Chính bản thân Tư Mã Thiên chỉ can gián vua mà đã bị tội
“Cung Hình” phải cắt bỏ bộ phận sinh dục huống chi gọi vua là man di mọi rợ,
chắc chắn phải bị tru di tam tộc!”.
3. Thứ ba, sử sách Trung Quốc ghi “Tam Hoàng Ngũ
Đế” là không đúng mà thực ra chỉ có nhị hoàng là Phục Hy, Thần Nông. Truyền
thuyết khởi nguyên dân tộc kể lại là dòng Thần Nông phương Bắc như Đế Nghi, Đế
Lai, Đế Du Võng, Đế Hoàng, Đế Xuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Vũ lập
ra nhà Hạ trước đây sách sử ghi là của Trung Quốc mà sự thật là của Việt tộc.
Việt Nam Nước Tôi viết: “Theo các nhà
Tiền Sử học thì Malayo-Viets tức Bách Việt đã định cư ở Trung Nguyên cách đây
ít nhất là 6 ngàn năm hoàn toàn phù hợp với niên đại trong huyền sử ghi rằng họ
Phục Hy làm vua từ năm 4.480 đến 3.220 TDL và họ Thần Nông làm vua từ năm 3.220
TDL đến năm 3.080 TDL. Thời Xuân Thu là thời kỳ phục hưng của Việt tộc với sự
trổi dậy của các quốc gia Bách Việt, hết Ngô đến Việt xưng “Bá” rồi tới Sở lãnh
đạo liên minh 6 nước trung nguyên chống Tần giành quyền thống lĩnh trung
nguyên. Chính vì vậy, thời kỳ này mới xuất hiện các nhân vật huyền sử Việt từ
Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Đế Hoàng (Hoàng Đế) tới Đế Xuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu
và Đế Thuấn và Đế Đại Vũ nhà Hạ của Việt tộc.
Chính Khổng Tử, người được xem là
“Vạn Thế Sư Biểu”, bậc thầy muôn đời của Trung quốc cũng biết rõ điều này nên
chưa hề nhắc tới nhân vật Hoàng Đế của Trung Quốc mặc dù Khổng Tử đã xác nhận
rõ là theo phò triều Chu. Trong các tác phẩm Cổ Sử Khảo, Tam Ngũ Lịch, Đông Kỷ,
Đế Vương Thế Kỷ thì tất cả đều khẳng định rằng Thần Nông có liên quan huyết
thống với Việt tộc. Nói cách khác, Việt tộc chính là hậu duệ của Thần Nông. Cổ
thư Trung Quốc chép đời Nghiêu Thuấn đánh dẹp họ Cộng Công (Hán tộc) vì đã
tranh ngôi với Chúc Dung là hậu duệ của Đế Viêm Thần Nông. Vua các nước Trịnh
và hoàng tộc một số nước ở bán đảo Sơn Đông như Tề, Lỗ, Trần đều nhận họ là con
cháu Thần Thái Sơn và lấy họ Khương của Thần Nông. Như vậy, Thần Nông họ Khương
định cư ở đất Khương ở phía Tây nên sử TQ viết là Tây Khương đúng như truyền
thuyết kể lại là cháu ba đời của Thần Nông là Đế Minh đi tuần du phương Nam...”.
4. Thứ tư, sử gia Phạm Trần Anh đã dẫn chứng
công trình khảo cổ học để chứng minh dòng Thần Nông phương Bắc gồm Đế Nghi, Đế
Lai, Đế Du Võng cho tới nhà Hạ là của Việt tộc. Thật vậy, lịch sử vẫn là lịch
sử “Chết cứng” trên nguồn thư tịch, thế nhưng một khi những sự kiện lịch sử này
được các công trình khảo cổ khai quật thì trở thành lịch sử “Sống động”. Khảo
cổ học chứng minh qua những di chỉ, hiện vật cũng như niên đại khảo cổ được xác
định bằng phương pháp đồng vị C 14 thì sự kiện này là một sự thật lịch sử sống
động, có giá trị thuyết phục mà không một luận cứ nào có thể phản bác được. Với
phương pháp phóng xạ C14, các nhà khảo cổ đã xác minh được những người Ngưỡng
Thiều, Long Sơn thuộc chủng Mongoloid ở phương Nam nên chúng tôi gọi là
Hoabinhoid => Hoabinhian => Protoviets (Tiền Việt) => Malayo-Viets =
Bách Việt (Bai-Yue) mới chính xác. Kết qủa phân tích mã di truyền DNA cho biết
người miền Đông và miền Nam Trung Quốc hiện nay có cùng DNA với người Việt Nam
và cả cư dân Đông Nam Á nữa. Chứng cứ khảo cổ này đã phục hồi sự thật lịch sử
là nhà Hạ trong lịch sử Trung Hoa là của Việt tộc đã định cư ở vùng sông Bộc mà
truyền thuyết kể là ngành Thần Nông phương Bắc gồm Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng
đã tái hợp cùng ngành Thần Nông phương Nam đi lên đã thành lập các triều đại Đế
Hoàng, Đế Nghiêu, Đế Thuấn và Đế Hạ Vũ nhà Hạ.
5. Thứ năm, sử gia Phạm Trần Anh là người đầu
tiên lý giải truyền thuyết khởi nguyên dân tộc một cách rõ ràng nhất, đầy đủ
nhất, trong sáng và thuyết phục nhất chứ không còn hoang đường huyền hoặc như
chúng ta vẫn hiểu từ trước đến giờ. “Thế
là truyền thuyết từ chỗ “U u minh minh” đã trở thành “Minh minh” chứ không còn
“u u minh minh” như trước nữa. “Với tất cả tấm lòng và thái độ trân trọng
nghiêm chỉnh và với phương pháp nghiên cứu huyền thoại để tự đặt mình vào hoàn
cảnh lịch sử thời cổ đại thì những ẩn ý hàm tàng trong huyền thoại sẽ gợi mở
sáng tỏ, minh nhiên lý giải những gì ẩn tàng trong bức thông điệp “Huyền Thoại”
của tiền nhân gửi gấm cho thế hệ chúng ta. Ý niệm trứng trong huyền thoại biểu
trưng Totem vật linh biểu trưng của Việt tộc là tộc người thờ chim là một con
vật đứng đầu trong tứ linh: nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng. Vì vậy, việc
Mẹ Âu Cơ mà vật tổ biểu trưng là chim thì việc mẹ Âu sinh ra trăm trứng nở ra
trăm người con trai trên bình diện tâm linh là bình thường không có gì đáng
ngạc nhiên cả…”.
6. Sử gia Phạm Trần Anh đã chứng minh niên đại
của truyền thuyết về Thần Nông vào thiên niên kỷ thứ IV TDL hoàn toàn phù hợp
với niên đại khảo cổ và kết quả đo chỉ số sọ của các nhà Khảo Tiền Sử về chủng
Hoabinhian-Proto-Viets => Indonesian (Malaysian => Malayo-Viets = Bách
Việt (Bai-Yue). Theo các nhà Tiền Sử học thì Malayo-Viet tức Bách Việt đã định
cư ở Trung Nguyên cách đây ít nhất là 6 ngàn năm. Công trình nghiên cứu sử học
của học giả Shi Shi người Trung Quốc thì người U Việt (Gu-Yue) đã làm chủ biển
cả cách đây hơn 7 ngàn năm. Đặc biệt, truyền thuyết kể lại rằng bố Lạc dẫn 50
con về “Thủy Phủ,” trước đây chúng ta cho là huyền hoặc thế nhưng địa danh thủy
phủ đã được 2 học giả người Pháp là Pìerre Gourou và J Loubet tìm ra, đó chính
là cảng Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên được in trên bản đồ Atlas 1949.
Sự thật lịch sử này đã được chính nguồn sách sử cổ Trung Hoa xác nhận khi chép
về cộng đồng Bách Việt, đã chứng minh sự thật lịch sử của huyền thoại mà ta cứ
tưởng là huyền hoặc hoang đường. Truyền thuyết khởi nguyên dân tộc đã được
chính thư tịch cổ Trung Quốc thừa nhận sự thành lập của các quốc gia thời Chiến
quốc mà họ gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Đông Việt tức U-Việt của Việt
Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết Giang mà lên tới miền Giang Tô tức Châu Từ,
quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi tiếng của chi Dương Việt mà kinh đô là Cối Kê.
Lý Tế Xuyên đã viết “Việt Điện U Linh” về nước Việt cổ xưa. Mân Việt ở Phúc
Kiến, Dương Việt ở Giang Tây, Điền Việt ở Vân Nam, Quỳ Việt ở Tứ Xuyên, Nam
Việt ở Quảng Đông, Âu Việt còn gọi là Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc Việt trải dài từ
Đông Bắc Trung Quốc xuống tới Quảng Tây và Bắc Việt Nam.
Chính sách sử cổ Trung
Quốc ghi rõ cộng đồng Bách Việt cư trú khắp trung nguyên, thế mà sử quan triều
Thanh Tiền Hy Tộ đã bóp méo ý nghĩa và sửa lại niên hiệu thành lập nước Văn
Lang như sau: “Đến đời Chu Trang Vương
(696-682 TDL) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc,
tự xưng Hùng Vương, đóng đô ờ Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang. Phong tục thuần
hậu, chất phác. Chính sự dùng lối thắt nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng
Vương”. Trước những sự thật của lịch sử, Trung Quốc đã phải xác nhận là nền
văn hoá của họ là do hàng trăm dân tộc góp phần tạo dựng nhưng văn hoá Hán ở
vùng Tây Bắc là chủ thể. Thế nhưng chính học giả Trung Quốc Wang Kuo Wei lại
cho rằng nơi phát nguyên văn hoá Trung Quốc là ở miền Đông Bắc tức vùng Sơn
Đông của Lạc bộ Trĩ chứ không phải ở miền Tây Bắc (Thiểm Tây) như quan niệm sai
lầm từ trước đến nay.
Thế mà các nhà sử học Mác Xít đã viết sử rập khuôn sử
quan triều Thanh và theo nghị quyết của đảng Cộng Sản Việt Nam về sự thành lập
nước Văn Lang trong bộ Lịch sử Việt Nam của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam như sau: “Sự ra đời của nhà nước
Văn Lang đầu tiên của nước ta đời Hùng Vương và Âu Lạc đời An Dương Vương vào
giai đoạn Đông Sơn trong thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên… Căn cứ theo 15
bộ của nước Văn Lang và nhất là căn cứ vào quá trình chuyển hoá lịch sử nước Văn
Lang đời Hùng Vương đến nước Âu Lạc đời An Dương Vương, rồi đến 2 quận Giao
Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu và thuộc Hán, có thể xác định địa bàn của nước
Văn Lang tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ nước ta ngày nay và một phần
phía Nam tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc” .
Trên thực tế, địa bàn
cư trú của tộc Việt mà sách sử cổ Trung Quốc ghi là các quốc gia Bách Việt ở
rải rác khắp lãnh thổ Trung Quốc bây giờ. Các nhà sử học Mác Xít theo quan điểm
của đảng Cộng Sản Việt Nam đã cố tình sao chép nguyên văn những xuyên tạc, kéo
lùi niên đại thành lập Văn Lang, xác nhận lãnh thổ của Văn Lang chỉ bao gồm
phần lãnh thổ Việt Nam hiện nay và 1 phần phía Nam tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.
Đây chính là một hành động bán nước, phản bội lại công lao của vua Hùng và
xương máu của biết bao thế hệ tiền nhân. Việc sửa đổi lịch sử để hợp thức hóa
toàn bộ lãnh thổ Văn Lang xưa mà Hán tộc xâm chiếm là một tội ác “Thần Người
đều căm hận, Trời Đất chẳng dung tha” của tập đoàn Việt gian bán nước, tội đồ
muôn đời của dân tộc.
7. Cuối cùng, sử gia Phạm Trần Anh đã dẫn chứng một
sự thật lịch sử mới được khoa học xác nhận phân tích cấu trúc di truyền DNA của
Việt tộc đã xác định một lần nữa là Việt tộc là một đại chủng và hoàn toàn khác
biệt với Hán tộc đã làm sáng tỏ vấn nan khúc mắc từ ngàn xưa. Tôi trân trọng
cám ơn sử gia Phạm Trần Anh đã dày công nghiên cứu để hôm nay chúng ta có một
bộ sử với những chứng cứ khoa học nhất, thuyết phục nhất, đầy đủ nhất và hữu
ích nhất cho thế hệ con em Việt Nam chúng ta.
Nguyễn Anh Tuấn (Tiến sĩ
Khoa học Chính Trị)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét