VIỆT GIAN CỘNG SẢN BÁN NƯỚC TỪ KHI NÀO?
Attachments area
Ngày 3-2-1934, bốn năm sau ngày thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam 3-2-1930, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyết tâm bán nước với Chu Ân Lai, Thủ tướng Trung Quốc rằng “Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một: Một dân tộc, một nền văn hóa, một phong tục và một Tổ Quốc”. Đây là đầu tiên tập đoàn Việt gian Cộng sản bán nước trong lịch sử, dẫn tới những hệ lụy cho dân tộc Việt Nam sau này.
Tháng 1 năm 1950, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc cầu viện và xin đứng vào hàng ngũ các nước Cộng sản.
Ngày 18-1-1950, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa công nhận nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và viện trợ ồ ạt vũ khí hạng nặng cho Việt Minh CS.
Ngày 31-1-1950, Cộng Hòa Liên Bang Sô Viết công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Sự kiện Liên Sô và Trung Quốc công nhận nhà nước VNDCCH do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã chính thức công nhận việc nhà nước VNDCCH gia nhập hàng ngũ Cộng sản quốc tế. Trước tình trạng này, ngày 7-2-1950, Hoa Kỳ, Anh và các nước thuộc thế giới tự do công nhận chính phủ Quốc Gia Việt Nam do Đức Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Từ thời điểm này, cuộc chiến Việt Nam không còn là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc như Cộng sản vẫn tuyên truyền lừa dối nhân dân, mà cuộc chiến đã trở thành một cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng Sản và Thế giới Tự do.
Năm 1951 Trường Chinh, Tổng Thư Ký Đảng Lao Động Việt Nam trong lời kêu gọi của Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm thứ VII đã viết:
“Hỡi Đồng bào thân mến, Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung Quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn tư bản da trắng đem vào? Tại sao ta lại đem truyền bá trong dân chúng từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, cách viết chữ kỳ lạ của tên Thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế?...
Vả chăng, người Trung Hoa là bạn của ta, mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế- có phải là dân tộc văn minh trước nhất toàn cầu không?
(Nhật Báo Tiếng Dội số 462, năm thứ ba ngày thứ sáu 24 Aout năm 1951, chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc có đăng bài “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”
Năm 1956, Trung Cộng đánh chiếm đảo Tuyên Đức nằm ở phía Đông của quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa thì đến ngày 15-6-1956, Thứ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Ung Văn Khiêm xác định với Đại Lý Sự Vụ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Li Zhimin rằng: " Về phương diện lịch sử, Hoàng Sa và Trường Sa là một phần đất của Trung Quốc".
Ngày 4 -9-1958, Trung Cộng tuyên bố chủ quyền lãnh hải trên biển Đông mà họ gọi là biển Nam Trung Hoa.
Ngày 14-9-1958, Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm văn Đồng gửi công hàm cho Chu Ân Lai, Tổng Lý Sự vụ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa co6g nhận Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc.
Ngay sau đó, Phạm văn Đồng chỉ thị cho viện Sử học hội thảo về đề tài Hùng Vương hay Lạc Vương để đi tới kết luận là dân tộc Việt chỉ là hậu duệ của Lạc Việt mà thôi. Cương giới của chi Lạc Việt chỉ bao gồm 1 phần Quảng Tây, Bắc và Trung Việt Nam. Mặt khác, tập đoàn Việt gian chỉ đạo cho các nhà sử học Mác Xít viết theo nghị quyết của đảng Cộng sản kéo lùi niên đại thành lập quốc gia Văn Lang vào thế kỷ thứ 6 TDL cho phù hợp với Việt Sử Lược do sử quan Tiền Hy Tộ triều Thanh sửa đổi toàn bộ nội dung bộ Đại Việt Sử Lược của tác giả vô danh đời nhà Trần.
Hành động bán nước ày của đảng Việt gian Cộng sản chính thức nhường lại toàn bộ lãnh thổ Văn Lang xa xưa của tộc Việt trên lãnh thổ Trung Quốc hiện nay, mà còn phủ nhận truyền thuyết Rồng Tiên và phủ nhận luôn những nền văn minh rực rỡ của Việt tộc.
Nguyễn Khắc Thuần trong "Việt Nam, Tư Liệu Tóm Tắt" nhân danh cái gọi là "Khoa học lịch sử hiện đại" lập luận rằng: “Trái với những ghi chép của chính sử cũ và các tài liệu dã sử khác, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học xã hội nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cho rằng nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ tồn tại khoảng 300 năm và niên đại tan rã là khoảng 208 TDL chứ không phải 258 TDL. Với 300 năm, con số 18 đời Hùng là con số dễ dàng chấp nhận. Tuy nhiên cũng không vì thế mà khẳng định rằng nước Văn Lang thực sự có 18 đời vua Hùng nối tiếp nhau trị vì. Tóm lại nước Văn Lang chỉ tồn tại trước khoảng 300 năm và con số 18 đời vua Hùng cho đến nay vẫn là con số của huyền sử!”.
Bộ Lịch Sử Việt Nam của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam viết về sự thành lập nước Văn Lang như sau: “Sự ra đời của nhà nước Văn Lang đầu tiên của nước ta đời Hùng Vương và Âu Lạc đời An Dương Vương vào giai đoạn Đông Sơn trong thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên… Căn cứ theo 15 bộ của nước Văn Lang và nhất là căn cứ vào quá trình chuyển hoá lịch sử nước Văn Lang đời Hùng Vương đến nước Âu Lạc đời An Dương Vương, rồi đến 2 quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu và thuộc Hán, có thể xác định địa bàn của nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ nước ta ngày nay và một phần phiá Nam tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc”.
Các nhà sử học Xã Hội Chủ Nghĩa viết sử theo nghị quyết của đảng Cộng sản sửa đổi lịch sử cho phù hợp với sử Trung Quốc đã chứng minh bản chất Việt gian bán nước khi phủ nhận cội nguồn, phản dân tộc của họ. Đây là tội ác lịch sử của một số người vong bản, nhân danh “Sử quan Duy vật, khoa học lịch sử Mác Xít” để phản bội dân tộc, phủ nhận cội nguồn gốc tích tổ tông không thể tha thứ được.
Họ đã phủ nhận nền văn hóa Hòa Bình, Phùng Nguyên, văn minh Đông Sơn mà các công trình khảo cổ đã xác định rằng, sơ kỳ của thời đại đồ đồng ở Việt Nam mở đầu cách nay 4.000 năm với nền văn hoá Phùng Nguyên mà đỉnh cao là nền văn hoá Đông Sơn được giới nghiên cứu thừa nhận là nền văn minh trống đồng độc đáo của Việt tộc mở đầu cách nay 2.800 năm. Điều đó có nghĩa là ít nhất là cách đây ít nhất là 4.000 năm, xã hội Việt cổ đã tổ chức ổn định thứ tự lớp lang. Nói một cách khác, xã hội Văn Lang đã được định chế hoá thành nhà nước từ lâu. Giới nghiên cứu lịch sử cổ đại đã nhận định là khi con người cổ đại đã biết nung chảy kim khí thì họ cũng nung chảy luôn cái khuôn mẫu xã hội nguyên thủy để tổ chức thành nhà nước với những định chế rõ ràng.
Mặt khác, họ quên một điều là bộ Đại Việt Sử Lược tuy là bộ sử xưa nhất còn sót lại nhưng đã bị Tiền Hy Tộ (người Hán) sửa chữa đổi tên là Việt Sử Lược rồi lưu trong Tứ Khố Toàn Thư của Thanh triều nên luận điệu sặc mùi Đại Hán bành trướng. Các sử gia Hán tộc với quan niệm "Đại nhất thống" tự cho là trung tâm thế giới, cái rốn của nhân loại, là tộc người ưu việt.
Các triều đại Hán tộc luôn luôn chủ trương “Huệ thử Trung Quốc, dĩ tuy tứ phương” nghĩa là: lấy ân huệ Trung Quốc để yên định bốn phương và "Dĩ Hạ biến Di", lấy cái cao thượng, tao nhã của Đại Hán để cải hoá man di mọi rợ. Chính vì vậy trong mọi thời kỳ lịch sử, Hán tộc luôn luôn chủ trương tiêu diệt văn tự các dân tộc khác, âm mưu nô dịch văn hoá rồi đồng hoá các dân tộc. Lợi dụng Hán tự là văn tự duy nhất các sử gia Trung Quốc từ cổ đại đến nay đã xuyên tạc, bóp méo sự thật, sửa đổi cho phù hợp với sử quan Đại Hán, đánh đổ lòng tự hào dân tộc của các tộc người khác để dễ bề thống trị và đồng hoá họ. Đó là chủ trương trước sau như một, bản chất bành trướng thâm độc của họ suốt từ xưa tới nay.
Thực tế lịch sử đã chứng tỏ đảng CSVN là một tập đoàn Việt gian CS Bán nước Hại dân nên chính Phan Huy Lê, Viện Trưởng Viện Sử học đã phải thừa nhận là viết sử theo nghị quyết thì lịch sử không còn là lịch sử nữa và sử gia nổi tiếng của chế độ là Đào Duy Anh đã đau đớn viết một lời trăn trối lại là "Người Ta biết tôi nhờ lịch sử và người ta kết án tôi cũng vì lịch sử!".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét