LỜI NÓI ĐẦU
Mỗi dân tộc đều có
những truyền kỳ lịch sử được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang
tính sử thi của mình. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về ngọn nguồn huyết thống
Việt tuy đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét
nhân văn của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Huyền sử con Rồng cháu Tiên là
niềm tự hào của nòi giống Việt. Đã là người Việt Nam thì từ em bé thơ ngây đến
cụ già trăm tuổi, từ bậc thức giả uyên bác đến bác nông dân suốt đời chân lấm
tay bùn, không ai không một lần nghe truyện cổ tích Họ Hồng Bàng. Thật vậy, ai
trong chúng ta mà không biết về nguồn cội Rồng Tiên với thiên tình sử của “Bố
Lạc Mẹ Âu” mở đầu thời kỳ lập quốc của dòng giống Việt.
Truyền thuyết Việt Nam
nói đúng hơn đó là truyền kỳ lịch sử Việt Nam được hư cấu dưới lớp vỏ huyền
thoại nhưng thực chất lại đề cao con người với ý nghĩa nhân bản truyền thống.
Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng một triết lý văn hoá cao đẹp không những thấm
đậm tính nhân đạo, chan chứa vẻ nhân văn, mà còn tràn đầy tình đồng bào, nghĩa
ruột thịt qua hình tượng “Bọc điều trăm trứng nở trăm con”. Từ ý niệm đồng bào
dẫn đến lòng yêu nước, thương nòi, yêu quê cha đất tổ, tất cả đã trở thành giá
trị đạo lý truyền thống của nền văn minh đạo đức Việt Nam. Học giả Henri
Bernard Maitre đã ca tụng nét đẹp văn hiến của Việt tộc qua đền thờ gọi là Văn
miếu. “Văn Miếu không phải để cầu kinh
hay làm bùa phép mà là nơi trang trọng ghi ơn các anh hùng dân tộc, các danh
nhân văn hoá, các vị Tiến sĩ với những chuẩn mực đạo đức để con cháu đời sau
ghi sâu vào tâm khảm bài học về đạo làm người Việt Nam, xứng đáng với hoài bão
của Tiền Nhân”.
Đối với người Việt,
việc thờ cúng Ông bà Tiên tổ là đạo lý làm người trong đời sống tâm linh của
người Việt. Từ xa xưa người Việt coi trọng đạo nghĩa nên thường nghĩ tới ngày
giỗ của người thân hơn là chú trọng đến ngày “sinh nhật” của mình. Ngày nay, dù
giới trẻ quan tâm nhiều đến ngày sinh nhật nhưng cũng không quên những ngày kỵ
giỗ người thân trong gia đình. Đạo thờ cúng ông bà là một “Việt đạo” thể hiện
đạo lý làm người Việt Nam. Linh mục Cadièrre một thừa sai ngoại quốc đến Việt
Nam truyền giáo phải thốt lên “Việt Nam
là một dân tộc có tinh thần tôn giáo cao độ”.
Học giả Paul Mus nghiên
cứu về Việt Nam cũng thừa nhận rằng “Dân
tộc Việt có một đời sống tâm linh cao, người Việt không làm việc, họ tế tự”.
Thật vậy, người ngoại quốc ngạc nhiên khi thấy “Mỗi gia đình Việt Nam là một nhà thờ, nhà nào cũng có bàn thờ gia Tiên
ở chính giữa nhà. Trong đời sống tâm linh Việt, Nhất cử nhất động, việc gì cũng
tràn đầy tính chất thiêng liêng, thờ phượng, tế lễ, cúng giỗ với tất cả tấm
lòng chí thành”. Đây chính là điểm đặc thù độc đáo thấm đậm bản sắc dân
tộc, tràn đầy vẻ nhân văn của triết lý văn hoá nhân chủ Việt Nam. Trong đời
sống tâm linh Việt không chỉ hiển hiện ở bàn thờ Gia Tiên mà đền thờ ngự trong
tâm thức mỗi người.“Người Việt không tham
dự vào các buổi lễ để được ban phát ân sủng, mà họ hiệp thông cầu nguyện như
một người “Tư Tế” với tất cả tính chất thiêng liêng của một tôn giáo”. Điều
này thể hiện giá trị cao đẹp đặc trưng đời sống tâm linh của người Việt cổ.
Thờ cúng tổ tiên chính
là đạo lý làm người, là cái gì thiêng liêng cao cả truyền từ đời này sang đời
khác. Chính dòng sống tâm linh này đã góp phần bảo tồn dòng giống Việt. Truyền
thống thờ cúng ông bà không còn là một tập tục, một tín ngưỡng đơn thuần mà đã
trở thành đạo lý của dân tộc. Thờ cúng ông bà được xem như Tổ Tiên chính giáo
của đạo làm người Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu một sĩ phu yêu nước thế kỷ XIX
đã ân cần nhắc nhở “Thà đui mà giữ đạo
nhà, Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ”. Người Việt Nam ai cũng biết uống
nước phải nhớ nguồn vì “Công cha như núi
Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho
tròn đạo hiếu mới là đạo con ..!”1[1]
và “ Ơn cha mẹ thề không lỗi đạo, Thờ
sống sao thờ thác làm vầy. Công cha nghĩa mẹ xưa nay, Con nguyền ghi nhớ thảo
ngay một lòng”.
Đây chính là điểm độc
đáo của dòng sống tâm linh Việt vẫn tiếp nối truyền lưu trong mỗi con người
Việt Nam chúng ta hôm nay và mãi mãi về sau. Thật vậy bên cạnh đời sống thực tế
khổ đau trước mắt, vẫn hiển hiện một đời sống tâm linh sâu thẳm, thấm đậm tính
nhân bản hiện thực cao đẹp. Chính dòng sống tâm linh đó đã tạo cho mỗi người
Việt Nam một quan niệm sống lạc quan yêu đời, an nhiên tự tại nhưng vẫn sẵn
sàng hy sinh mạng sống cho nền độc lập thực sự, quyền tự do thực sự và sự ấm no
hạnh phúc thực sự cho toàn dân Việt Nam.
Lịch sử Việt là lịch sử
của sự thăng trầm từ khi lập quốc đến ngày nay trải qua gần một ngàn năm đô hộ
của giặc Tàu, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô dịch văn hóa
ngoại lai. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc bành trướng với ưu thế của một
nước lớn đất rộng người đông cùng với những thủ đoạn thâm độc quỉ quyệt xóa đi
mọi dấu vết cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch sử khiến thế hệ sau chỉ biết tìm về
lịch sử trong một mớ “chính sử” hỗn độn mơ hồ.
Mỗi một triều đại Hán
tộc đều chủ tâm thay đổi địa danh, thủy danh xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh
hưởng nặng nề của gần một ngàn năm nô dịch văn hóa khiến ta chấp nhận tất cả
như một sự thật mà không một chút bận tâm. Thế nhưng, lịch sử vẫn là lịch sử
của sự thật dù bị sửa đổi vùi lấp hàng nghìn năm dưới ánh sáng của chân lý
khách quan trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Bước sang thiên niên kỷ
thứ ba, ánh sáng của sự thật soi rọi vào quá khứ bị che phủ hàng ngàn năm bởi
kẻ thù Hán tộc bành trướng. Trong thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại sửng sốt
trước cái gọi là “Nghịch lý La Hy” vì trước đây, nhân loại cứ tưởng tất cả nền
văn minh Tây phương là của đế quốc Hy Lạp La Mã, để rồi phải xác nhận đó chính
là nền văn minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại lại ngỡ
ngàng khi thấy rằng cái gọi là nền văn minh Trung Quốc lại chính là nền văn
minh của đại chủng Bách Việt.
Vấn đề đặt ra cho chúng
ta là phải nhìn lại toàn bộ lịch sử Việt để phục hồi sự thật của lịch sử để xóa
tan đám mây mờ che lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù truyền kiếp của dân
tộc. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào chịu nhiều mất mát
trầm luân như dân tộc Việt với những thăng trầm lịch sử, những khốn khó thương
đau. Ngay từ thời lập quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với sức mạnh của tộc người
du mục đã đánh đuổi Việt tộc phải rời bỏ địa bàn Trung nguyên Trung quốc xuống
phương Nam để rồi trụ lại phần đất Việt Nam bây giờ. Trải qua gần một ngàn năm
đô hộ, với chiến thắng Bạch Đằng Giang năm 938 của Ngô Quyền mới chính thức mở
ra thời kỳ độc lập của Việt tộc.
Trong suốt trường kỳ
lịch sử, tuy bị Hán tộc xâm lấn phải bỏ trung nguyên xuống phương Nam nhưng nền
văn hóa của Việt tộc đã thẩm nhập vào đất nước và con người Hán tộc để hình
thành “cái gọi là văn minh Trung Quốc”. Chính sử gia chính thống của Hán tộc là
Tư Mã Thiên đã phải thừa nhận một sự thực là: “Việt tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân
vậy …”. Vạn thế sư biểu của Hán tộc là Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực
rỡ, xác nhận tính ưu việt của nền văn minh Bách Việt ở phương Nam. Trong sách
Trung Dung Khổng Tử đã viết như sau:
“Độ luợng bao dung, khoan
hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người
quân tử cư xử như vậy..! Mặc giáp cưỡi
ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ
cường đạo hành xử như thế...”.
Trong kinh “Xuân Thu”,
Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp cha giết con, con giết cha, cha cướp
vợ của con, con cướp vợ của cha, anh chị em dâm loạn với nhau, bề tôi giết chúa
… Điều này chứng tỏ Hán tộc du mục vẫn còn dã man mạnh được yếu thua, bất kể
tình người, bất kể luân lý đạo đức. Thế mà chính sử Trung Quốc cứ vẫn miệt thị
Việt tộc là man di, các Thứ sử Thái Thú Hán vẫn lên mặt giáo hóa dân Việt trong
khi Bách Việt ở phương Nam đã đi vào nền nếp của văn minh nông nghiệp từ lâu.
“Vạn thế Sư biểu” của
Hán tộc là Khổng Tử cũng đã phải đem những nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền
văn minh Bách Việt phương Nam đặt để thành những tôn ti trật tự, những giá trị
đạo lý cho xã hội Trung Quốc. Tất cả những “San Định” của Khổng Tử được xem như
tinh hoa của Hán tộc đã được chính Khổng Tử xác nhận là ông chỉ kể lại “Thuật
nhi bất tác”, chép lại của tiền nhân chứ không phải do ông sáng tác ra. Ngày
nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi khi giới nghiên cứu đều xác nhận hầu hết
các phát minh gọi là văn minh Trung Quốc, từ nền văn minh nông nghiệp đến văn
minh kim loại, kỹ thuật đúc đồng, cách làm giấy, cách nấu thủy tinh, cách làm
thuốc súng, kiến trúc nóc oằn mái và đầu dao cong vút … tất cả đều là của nền
văn minh Bách Việt. Chính Hán Hiến Đế, vị vua cuối cùng của triều Hán đã phải
thừa nhận như sau:“Giao Chỉ là
đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài
kiệt xuất ..!”.
Bước sang thế kỷ XX,
dân tộc Việt chưa tháo gỡ được cái ách thống trị của thực dân Pháp thì chủ
nghĩa cộng sản đã tràn vào Việt Nam đưa dân tộc Việt vào thế khốn cùng. Cộng
sản Việt Nam đã núp dưới chiêu bài giải phóng dân tộc để bành trướng chủ nghĩa
cộng sản, tạo cơ hội cho tư bản nhân danh thế giới tự do nhảy vào can thiệp,
ngăn chặn làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á. Hậu qủa là hàng triệu người đã phải hi
sinh oan uổng để rồi gần chín mươi triệu đồng bào đang phải sống dở chết dở
dưới chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân. Với chủ trương nô dịch của cộng sản,
biết bao thế hệ Việt Nam bị nhồi nhét nền văn hóa Mác-Lê phi nhân tàn bạo mà
hậu qủa là tạo ra những cỗ máy vô hồn, những con người vô cảm lạnh lùng, mất
gốc.
Gần 4 triệu đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng sản trên khắp thế giới
nên thế hệ con em chúng ta ở hải ngoại phần nào bị ảnh hưởng của văn hóa ngoại
lai mang tính thực dụng, quên đi bản sắc văn hóa truyền thống Việt chan chứa
tình người. Chính vì vậy, vấn đề hết sức khẩn thiết là làm sao phải phục hoạt
văn hóa Việt, phục hưng minh triết Việt để tẩy rửa mọi ý hệ ngoại lai, mọi ý đồ
truyền bá văn hóa “Trung Quốc” đang được “những tên Thái thú mới”, “xác Việt hồn
Tàu” đang thi hành mệnh lệnh của quan thầy Trung Cộng ra sức nhồi sọ dân tộc
Việt.
Hơn lúc nào hết, tìm hiểu về huyền thoại Rồng Tiên, khởi nguyên dân tộc Việt Nam thời
Lập Quốc với Quốc Tổ Hùng Vương là một yêu cầu
lịch sử hết sức cần thiết. Trong ý hướng đó, chúng tôi cố gắng tóm gọn lịch sử
Việt từ thời lập quốc cho đến ngày nay trong “Việt Nam Nước Tôi” để thế hệ trẻ Việt Nam hiểu rõ tường tận lịch
sử Việt Nam. Khi thế hệ con em chúng ta hiểu rõ về bản sắc văn hoá truyền thống
của dân tộc Việt, về đời sống văn hoá tâm linh Việt, về những lễ tết, hội hè
đình đám của dân tộc Việt thì thế hệ con em chúng ta sẽ thấy rõ hơn giá trị cao
đẹp của bản sắc văn hóa truyền thống nhân bản Việt. Con em chúng ta có quyền tự
hào là “con Rồng cháu Tiên” của một dân tộc có lịch sử lâu đời như danh nhân
văn hóa Nguyễn Trãi đã tuyên xưng: “Chỉ
nước Đại Việt ta từ trước, mới
có nền văn hiến ngàn năm”.
Chúng ta phải làm sao
xứng đáng với tiền nhân, chúng ta phải làm gì để không hổ thẹn với hồn thiêng
sông núi, với anh linh của những anh hùng liệt nữ Việt Nam. Toàn thể đồng bào
trong nước và Hải ngoại cùng nắm chặt tay nhau, muôn người như một cùng đứng
lên đáp lời sông núi để cứu quốc và hưng quốc, tô điểm giang sơn gấm vóc, xứng
danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng.
Chúng ta hãnh diện được
làm người Việt Nam thuộc một đại chủng lớn của nhân loại để ngẩng cao đầu sánh
vai cùng các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại. Chính niềm tự hào dân tộc sẽ thôi thúc
lòng yêu nước của toàn thể
đồng bào Việt Nam chúng ta, nhất là thế hệ trẻ trong
nước và Hải ngoại để vươn lên làm một cuộc cách mạng Đại Việt Nam: “Cách Mạng
Hóa-Hiện Đại Hóa Việt Nam”. Điều kiện khách quan của lịch sử đã tạo cho dân tộc
chúng ta một thế hệ trẻ có đầy đủ tri thức thời đại để hoàn thành một cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật siêu vượt, đưa đất nước chúng ta bước lên sánh vai cùng
các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Trong ý hướng đó, chúng
tôi viết Quốc Tổ Hùng Vương cùng với quyển Việt Nam Nước Tôi với một mong muốn
tha thiết được giới trẻ đón nhận như một quyển sách gối đầu giường, một “Cẩm
Nang” của một người Việt Nam yêu nước để chúng ta cùng nhau góp phần chuyển đổi
lịch sử để Cứu Quốc, Kiến Quốc và Hưng Quốc.
Tổ Quốc Việt Nam Trường Tồn
Dân
Tộc Việt Nam Bất Diệt
Việt Nam Muôn Năm
Mùa Giỗ Tổ 4.893 Việt Lịch (2014 DL)
PHẠM TRẦN ANH
phamtrananh2015@gmail.com
[1] Truyền thống
của người Việt cổ là mang theo địa danh thủy danh xuống đạt tên cho vùng đất mới.
Hà Nội, Hà Bắc, Hà Đông, Hà Tây, Hà Nam lúc trước của tiền nhân ở hạ lưu sông
Hoàng Hà. Núi Thái Sơn, sông Nguồn ở bán
đảo Sơn Đông Trung Quốc bây giờ là địa bàn cư trú của chi Lạc Bộ Trĩ của tộc Việt
nên khi bị tộc Thương đánh chiếm nhà Hạ cũa Việt tộc thì Bách Bộc, Lạc bộ Trĩ
vượt sông Hoàng Hà di chuyển xuống phương thành lập các quốc gia Bách Việt. Hán
tộc xâm lược đánh đuổi Bách Việt xuống định cư ở Nam Trung Hoa rồi trụ lại ở Bắc
VN bây giờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét