Là
người Việt Nam, chúng ta tự hào là con RỒNG cháu TIÊN thế nhưng, mỗi khi tìm về
nguồn cội dân tộc thì nỗi ray rứt niềm băn khoăn làm nhức nhối tâm can biết bao
con dân đất Việt. Ngay từ khi còn cắp sách đến trường, bài học thuộc lòng thuở
đầu đời “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu
mới là đạo con…”. Biết bao câu hỏi được đặt ra trong đầu óc ngây thơ trong
trắng như núi Thái Sơn ở đâu thì được thầy trả lời ở bên Tàu. Ai trong chúng ta
mà không đặt câu hỏi tại sao công cha nghĩa mẹ lại so sánh với núi Thái Sơn ở
bên Tàu?
Lớn
lên học văn chương truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du thì lại được giảng
thêm là Nguyễn Du phỏng theo cốt truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân bên
Tàu. Nhân vật Từ Hải quê ở Việt Đông, người anh hùng Việt tộc “chọc trời khuấy
nước một thời” thì bị xem như một thảo khấu chống lại triều đình!. Thế rồi ai
trong chúng ta mà chẳng một lần ấm ức xen lẫn hoài nghi khi nghe nói về huyền
thoại Rồng Tiên, truyền thuyết khởi nguyên của dân tộc bị một số trí thức “Tây
học” chê là hoang đường huyền hoặc.
Chúng
ta lại càng hổ thẹn hụt hẫng khi đọc quyển sử “Việt Nam Thời Khai Sinh” của
Linh mục Nguyễn Phương khẳng định người Việt chúng ta gốc là người Tàu! Thật là
điều đáng buồn là các sử gia thời quân chủ phong kiến chỉ tin vào chính sử
Trung Quốc, còn các nguồn gốc sử liệu khác thì chê là “Ngoại thư” không thể tin
được. Thậm chí các ông nho sĩ ta thời trước còn tôn thờ Sĩ Nhiếp là Sĩ Vương
trong khi các ông quên hẳn một điều là dù muốn dù không, Sĩ Nhiếp cũng là một
tên Thái Thú sang cai trị dân ta. Chính Sĩ Nhiếp chứ không ai khác đã đem chữ
Hán nô dịch đồng hoá dân tộc ta. Dân ta không chịu học chữ Hán, vẫn dùng ngôn
ngữ Việt cổ nên Sĩ Nhiếp cấm dân ta viết chữ tượng thanh của Việt tộc.
Trước
đây, một số sử gia tuy không cho rằng người Việt ta là gốc Tàu nhưng chịu ảnh
hưởng của Tàu trên nhiều phương diện nên cũng tán đồng luận điểm áp đặt của các
nhà Nhân chủng cho rằng dân tộc ta thuộc giống Mông cổ ngành Phương Nam. Ngày
nay, các nhà sử học Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam viết sử theo nghị quyết
của Đảng Cộng Sản nên đã không những không dám nói lên sự thật lịch sử mà lại
còn phụ hoạ với luận điểm cho rằng nước Văn Lang ta chỉ mới hình thành hơn 600
năm TDL cho phù hợp với sử quan bành trướng Đại Hán xa xưa mà hiện nay là Trung
Quốc anh em! Họ phủ nhận cương giới của nhà nước Xích Quy sơ khai của Việt Tộc,
chống lại sử quan dân tộc của những người Việt Nam chân chính mà họ phê phán là
khuynh hướng dân tộc cực đoan hẹp hòi.
Chính
vì những ấm ức hổ thẹn đó, chúng tôi mới đủ can đảm viết quyển sách nhỏ này.
Bản thân người viết không có tham vọng viết sử mà chỉ muốn nói lên những ý nghĩ
của người Việt Nam yêu nước xuyên suốt dòng vận động lịch sử của dân tộc. Ý
tưởng phải viết quyển sách nảy sinh ngay thời gian còn ở trong tù, khi Trung
Cộng tiến quân đánh Cộng sản Việt Nam ngày 17-2-1979.
Thoạt
đầu chúng tôi vui mừng vì nội bộ cộng sản phân hóa đánh lẫn nhau nhưng sau đó,
chúng tôi lại hết sức lo âu cho vận mệnh của dân tộc Việt. Chúng tôi thường
xuyên thảo luận với nhau về hiểm họa phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc
từ thời Thương, Chu, Tần, Hán. Thời Hán Vũ
Đế đã đem quân xâm lược đánh chiếm thống trị các dân tộc khác để mở rộng
lãnh thổ, thành lập một đế quốc Đại Hán hùng mạnh như đế quốc La Mã của phương
Tây. Chính sách sử Trung Quốc đã ghi chép: “Dân
tộc Trung Quốc là do các dân tộc Mông Cổ, Mãn Châu, Tạng, Hồi nhưng Hán tộc là
chủ thể” mà không dám nhắc đến tộc Việt vì người dân gọi là người Trung
Quốc ở miền Đông và miền Nam gốc Việt cổ chiếm hơn nửa dân số Trung Quốc.
Trong
suốt dòng lịch sử khởi từ thời lập quốc đến ngày nay, chủ trương trước sau như
một là bằng mọi giá phải tiêu diệt cho được tộc Việt vì cái gọi là văn hóa, văn
minh Trung Quốc chính là văn hóa, văn minh Việt mà Hán tộc đã tiếp nhận rồi cải
biến gọi là văn minh Trung Quốc. Thứ nữa, chính Hán tộc du mục từ thời tộc
Thương đã xâm chiếm nhà Hạ của Vìệt tộc năm 1766 TDL cho tới thời Hán Vũ Đế
đánh chiếm Nam Việt năm 111 TDL tất cả 7 cuộc xâm chiếm đất đai lãnh thổ của
các quốc gia Bách Việt, khiến tộc Việt phải rời bỏ phần lãnh thổ Trung Quốc
hiện nay chạy xuống định cư tại phần lãnh thổ Việt Nam bây giờ. Hầu hết người
Việt cổ trong các quốc gia Bách Việt đã bị thống trị, bị đồng hóa nhưng trải
qua hàng ngàn năm, tuy phần nào có giống “Đồng” nhưng vẫn giữ bản sắc văn hóa
truyền thống Việt, nên không bao giờ trở thành, “Hóa” thành người Trung Quốc
được.
Trung
Quốc là một quốc gia bao gồm nhiều chủng tộc, một Hiệp chủng quốc ở phương Đông
do xâm lược thống trị các dân tộc khác nên vấn đề chủng tộc là một tử huyệt của
đế quốc mới Trung Cộng. Chính vì vậy, chúng tôì bắt tay vào việc nghiên cứu,
tìm về nguồn gốc dân tộc để phục hồi sự thật lịch sử, chứng minh cho các dân
tộc ở Trung Quốc nhất là người dân ở miền Đông và miền Nam Trung Quốc hiểu rõ
cội nguồn gốc tích Việt của mình thì một ngày nào đó, 3/4 người dân Trung Quốc
bao gồm dân tộc Mông Cổ, Mãn Châu, Tây Tạng, Hồi Hột (Duy Ngô Nhĩ) và Việt sẽ
đứng lên chống lại giới cầm quyền, kẻ thù truyền kiếp của các dân tộc thì sự
sụp đổ của đế quốc Trung Cộng là một điều bắt buộc phải xảy ra, một tất yếu
lịch sử.
Chính
vì vậy, nên khi vừa ra khỏi trại tù, chúng tôi đã bắt tay vào việc tìm kiếm tài
liệu, viết những trang sách đầu tiên về lịch sử Việt trong hoàn cảnh hết sức
khó khăn, bị theo dõi kiểm soát nghiêm ngặt, rình rập thường xuyên nên viết
lách thật là khó khăn. Trong điều kiện đó, chúng tôi không thể lãnh hội những
cao kiến của các bậc thức giả cũng như tham khảo nguồn sách sử nhiều nên chắc
chắn còn nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, chúng tôi cũng mạnh dạn đặt vấn đề, đưa ra
những giả thuyết để có cái nhìn tổng quát xuyên suốt toàn bộ tiến trình lịch sử
dân tộc hầu mong nhận được những cao kiến đồng tình đóng góp hoặc phê bình phản
bác của các bậc thức giả, những người Việt Nam yêu nước chân chính để vấn đề
nguồn cội dân tộc ngày càng sáng tỏ. Được như vậy, người viết sẽ rất hân hạnh
vì đã góp được phần nhỏ nhoi của mình trong công cuộc tìm về nguồn cội dân tộc,
chu toàn bổn phận của một con dân đất Việt.
Người
viết cũng xin chân thành cảm ơn bằng hữu và những người có lòng ưu tư về nguồn
gốc dân tộc đã giúp đỡ khích lệ cá nhân tôi hoàn thành quyển sách này. Chúng
tôi cũng xin trân trọng tác giả những nguồn sử liệu và xin được phép tham khảo
ngõ hầu sáng tỏ thêm nguồn cội dân tộc. Chúng tôi may mắn là người đi sau nên có
được điều kiện tham khảo những nguồn sử liệu mới nhất của triết gia Kim Định,
nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc, giáo sư Nguyễn Đoàn Tuân, giáo sư Cung Đình
Thanh và Bác sĩ Trần Đại Sĩ nên mạnh dạn
đặt vấn đề tìm về cội nguồn dân tộc. Khi
chúng tôi vừa sơ thảo quyển Nguồn Gốc Việt Tộc thì chiến hữu Trần Thúc Vũ đi
định cư sang Hoa Kỳ nên một thời gian sau, quyển Cội Nguồn Việt tộc được ấn
hành và giới thiệu với đồng hương ở Hải ngoại năm 2004.
Tháng
11 năm 2006, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn giáo được thành lập trong nước
và cần phải có tiếng nói ở hải ngoại nên quý vị cố vấn và Hội Đồng Điều Hành đề
nghị với cương vị Phó Hội Trưởng Ngoại vụ, tôi phải sang định cư tại Hoa Kỳ để
vận động đồng bào trong và ngoài nước, vận động công luận quốc tế thúc đẩy tiến
trình dân chủ hoá Việt Nam.
Ngay
sau khi đến Hoa Kỳ, tôi đã đi các tiểu bang lớn của Hoa Kỳ và sang 5 nước ở
châu Âu, Canada để trình bày hiện tình Việt Nam và vận động chính giới, công
luận quốc tế và đồng hương Việt Nam ở các nước ủng hộ tiến trình dân chủ hóa
Việt Nam. Năm 2007, tôi sửa đổi bổ sung và cho tái bản quyển Nguồn Gốc Việt tộc
đáp ứng nhu cầu tìm hiểu về cội nguồn phát tích của tộc Việt. Quyển sách đã
được đồng hương đón nhận nhiệt tình nên chúng tôi phải tái bản lần thứ nhì và
bây giờ là lần thứ ba với những cập nhật mới nhất, thuyết phục nhất để trân
trọng gửi tới những tấm lòng tha thiết với nguồn cội dân tộc và bảo vệ bản sắc
văn hóa truyền thống Việt Nam.
Trong
sách này, chúng tôi dùng chữ dân gian thường gọi là Tàu thay vì Trung
Quốc. Chính sách sử Trung Quốc đã viết
là dân tộc Trung Quốc là do các tộc người Mông, Mãn, Tạng, Hồi và Hán là chủ
thể. Các nhà viết sử cũng như người Tàu tự nhận họ là người Hán (Hán nhân) vì
thời đại triều Hán là thời lãnh thổ Trung Quốc mở rộng do các cuộc xâm chiếm
đất đai của các dân tộc khác nên chúng tôi gọi là Hán tộc để chỉ một tộc người
du mục xâm lược.
Đứng
trên quan điểm dân tộc, chúng tôi chỉ dùng chữ “Nhà” thân thương cho các triều
đại của nước ta như nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần … còn Hán tộc
thì chúng tôi dùng chữ “Triều” (đại) như triều Thương, triều Chu, triều Hán.
Thứ
nữa, lấy năm thứ nhất Dương lịch làm điểm mốc lịch sử cho thật chính xác thay
vì chữ Công nguyên như vẫn dùng sai lầm từ trước đến nay. Sau cùng, chúng tôi
quan niệm rằng yêu nước tất phải trân trọng tất cả những thăng trầm hưng phế
của dòng vận động lịch sử mà biết bao thế hệ đã vun trồng bằng máu và nước mắt
để viết lên những trang sử bất khuất hào hùng. Đồng thời phải học biết về lịch
sử để hiểu rõ hơn ý nghĩa tuyệt vời của huyền thoại Rồng tiên, hiểu rõ về nguồn
cội dân tộc, hiểu rõ hơn bản sắc văn hóa và truyền thống cao đẹp của một dân
tộc có gần 5 ngàn năm văn hiến.
Tri
ân tiền nhân chưa đủ mà chúng ta phải học tập, noi gương các danh nhân anh hùng
khai sáng văn hoá, các anh hùng dân tộc của thời xa xưa thấm đậm trong tâm thức
Việt để rồi dân tộc sẽ sản sinh ra những anh hùng của một ngày mai. Chính vì
vậy, có thể nói lịch sử là ngọn nguồn của lòng yêu nước, chính lịch sử quá khứ
hào hùng của một dân tộc sẽ là tương lai xán lạn huy hoàng của dân tộc đó. Nói
theo sử gia thời danh Arnol Toynbee thì:
“Nếu thiếu những sự thách thức tức là thiếu
yêu cầu bức bách đòi hỏi phải biết vận dụng được một cách vượt bậc khả năng xoay
chuyển tình thế thì không có điều kiện để một cộng đồng người thể hiện được sức
mạnh và sự sáng tạo của mình. Chính sự đáp ứng thích hợp trước những thách
thức, sự vận dụng một cách vượt bậc khả năng xoay chuyển tình thế, đã đưa tới
những thành tựu văn hoá lớn tạo nên bản lĩnh của các dân tộc và có thể nói lịch
sử hình thành một nền văn minh lớn, không bao giờ diễn ra trên một con đường
bằng phẳng với những bước đi bình thản...”.
Trong
lịch sử nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào mà chịu đựng thử thách gian nan
khốn khó hơn dân tộc Việt. Lịch sử cũng đã chứng minh dân tộc ta đáp ứng được
những yêu cầu bức bách, sự thách thức của từng thời đại để Việt Nam là một
trong những nền văn minh cổ của nhân loại còn tồn tại mãi đến ngày nay.
Chúng
ta có quyền tự hào và tin tưởng hãnh tiến hướng về tương lai trước ngưỡng cửa
của thiên niên kỷ thứ III. Tuy nhiên chúng ta không thể đứng yên mà trông chờ
vào cái gọi là “Định mệnh lịch sử” mà nên nhớ rằng, Lịch sử hôm nay là chính
trị của những ngày qua và chính trị ngày
nay sẽ là lịch sử ở ngày mai.
Lịch
sử là cuộc trưng cầu dân ý mỗi ngày của một dân tộc thế nên chính chúng ta, mỗi
ngày đang góp phần lịch sử vào tương lai của dân tộc chúng ta.
Trong
ý thức đó, chúng tôi xin mời quý vị, chúng ta cùng tìm về cội nguồn Việt tộc,
về Việt Nam thời lập quốc từ truyền thuyết đến hiện thực lịch sử Việt Nam.
Việt Nam, Mùa giỗ Tổ
4879 Việt Lịch (DL 1999)
PHẠM TRẦN ANH.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét