Thứ Ba, 13 tháng 12, 2016
CHƯƠNG III
GIÚP ĐỠCÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ
1. Khởi nguyên từ việc cứu người trị bệnh cứu người đi dần đến chỗ hỗ trợ các tổ chức chính trị và liên can vào vụ án.
Kể từ khi chiếm
được chính quyền miền Nam, chính quyền Cộng Sản đã thể hiện quyền lực của kẻ
độc tài để sách nhiễu và bách hại đồng bào không thương tiếc. Cộng sản không
những áp bức bóc lột đồng bào ngoài xã hội mà những kẻ cuồng vọng lại còn giở
trò bịp bợm tiến dần lấn áp, uy hiếp đến cửa thiền môn nữa. Sau ngày 30.04.75
chỉ một ngày thôi, nhan nhản những sự bất công tàn bạo của Cộng Sản.
Tôi cảm thấy bất mãn chế độ độc tài nầy, vì tôi không có chút niềm tin nào với đường lối chính sách mà họ đang điều hành. Cộng Sản Việt Nam không hề đem đến hạnh phúc ấm no cho toàn dân dù ở mức độ thấp nhất. Từ đó, những buổi diễn giảng Phật pháp, tôi lồng vào những mẫu chuyện ngụ ngôn, răn đời rất thâm thúy của người xưa, hoặc lấy những điển tích trong Cổ học Tinh hoa để dẫn chứng. Tôi thấu hiểu được tâm tư nguyện vọng, tình cảm và hoàn cảnh của người dân, cho nên những mẫu chuyện, tôi chọn lọc sao cho thật nhạy cảm, phù hợp với tâm lý và đi gần với cuộc sống hiện thực của đời thường. Có những buổi nói chuyện hoặc là thuyết giảng giáo lý, nhiều bô lão rất tâm đắc gật gù, thỏa thích bởi những câu chuyện rất đúng với hiện trạng đã và đang xảy ra trước mắt người dân hàng ngày.
Lúc bấy giờ tôi nhờ một bà phật tử rất giỏi, chuyên trị bệnh cho trẻ em, tức bà Nguyễn Thị Ngà, còn gọi là cô Hai Huệ, năm nay 76 tuổi hiện còn sống, đang ngụ tại ấp Cái Dầy xã Châu Hưng. Cô Hai Huệ dầm phèn chua cùng vỏ cây so đũa và giấm, dùng lông gà, thọc vào họng cho bé ọe hết đờm ra, chỉ một phút sau bé thở trở lại bình thường, nét mặt trở nên hồng hào tươi tỉnh và khóc oa oa. Chị Huệ, mẹ cháu bé miệng vừa nở nụ cười hiền lành, vui mừng, vừa lấy khăn lau nước mắt. Tôi tiếp tục đưa cho chị thêm một ít thuốc tán để đem về cho cháu uống rồi chị quá giang xuồng về nhà tại xã Châu Thới. Chị không quên cảm ơn và cúi đầu từ giã mọi người.
Khoảng ba hôm sau, vào lúc buổi
chiều, trời sụp tối, thình lình tôi thoáng thấy có vài anh thanh niên đi thoăn
thoắt vào cổng chùa. Tôi liếc thấy mỗi người lại đứng mỗi góc bên hông chùa,
loáng thoáng bóng người lấp ló sau hàng dừa rồi khuất đi… Tôi vội ra xem thì có
một anh thanh niên tuổi khoảng 30, nước da đen xạm nắng. Trông thấy tôi, anh ta
ngả nón cúi chào và hỏi “Thưa! Có phải
thầy là Thầy Thích Thiện Minh trụ trì chùa này phải không?" Tôi đáp
lại “Phải! chính tôi". Sau đó,
tôi mời anh vào chùa, qua cuộc tiếp xúc trong buổi chiều hôm này, tôi được biết
anh tên là Trịnh Thanh Sơn 29 tuổi, anh từ rừng Đước U Minh vừa về thăm nhà,
được người vợ là chị Hồ Thị Huệ thông báo lại sự việc, tôi đã chữa trị cứu sống
được đứa bé. Hôm nay, mục đích anh đến chùa là để tỏ lòng cảm ơn và xin thêm ít
thuốc tán cho cháu bé. Khi trao đổi tiếp chuyện với anh Sơn, anh có nhờ tôi
giúp xem giùm tuổi tốt xấu cho anh, liệu anh đang xúc tiến công việc làm ăn lớn
có thể thành công không?
Rồi tôi và anh lại tâm sự tiếp.
Khi hai bên trò chuyện có những nhận xét và nhận thức giống nhau về một số vấn
đề xã hội hiện tại nên có sự đồng cảm lạ lùng. Anh bèn tiết lộ cho tôi biết,
anh đang trốn học tập cải tạo cùng một số binh lính, hạ sĩ quan, sĩ quan. Hiện
đang trú ngụ tại rừng U Minh Hạ và đang có hướng thành lập một tổ chức bí mật
để đấu tranh chống cộng đòi tự do. Thế nhưng hoàn cảnh hiện giờ trong thời kỳ
còn đang ẩn trốn, mọi việc bước đầu thật hết sức khó khăn, thiếu thốn đủ mọi
bề, chẳng hạn như: thiếu dầu để đốt đèn, thiếu pin, thuốc sốt rét, thuốc trừ
muỗi, áo mưa, giấy, bút, bàn máy đánh chữ, lương thực thực phẩm, vải may cờ, quân
trang quân dụng và cả vũ khí phòng thân… Theo tôi hiểu, dường như nhu cầu gì
cũng cần, và đường dây tiếp tế bây giờ chưa có. Sơn chưa tìm được mạnh thường
quân đúng nghĩa để đỡ đầu, nhằm kiện toàn và phát triển thành một tổ chức vững
mạnh. Khi nghe anh trình bày, tôi rất cảm thông và có hứa hẹn sẽ đóng góp một
phần những gì tôi có thể trợ giúp.
Kể từ giờ phút đó, tôi bắt đầu tạo mọi điều kiện và khả năng sẵn có của mình để giúp anh, đồng thời giới thiệu, vận động một số mạnh thường quân hỗ trợ tài lực, vật lực, nhân lực mỗi khi anh có dịp từ rừng Cà Mau về Bạc Liêu. Tôi tìm cách quan hệ với một số người quen nhờ gửi gắm một số anh em cài vào làm việc trong các cơ quan nhà nước Cộng sản như: Phòng giao thông vận tải, tòa án, công an, thị đội, huyện đội, xã đội để anh em trong các cơ quan này tìm cách giải quyết những nhu cầu của tổ chức đang cần. Trước tiên, tôi cho mượn một bàn máy đánh chữ, hiến tặng giấy, bút, vải may cờ, áo mưa, thuốc sốt rét, gạo, mặt nạ chống hơi độc, bản đồ tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, bản đồ quân khu bốn...
Tôi phối hợp cùng một số thành viên trong
huyện, tỉnh, cho quay roneo in Cương lĩnh Mặt trận, ra Tuyên cáo, phát tán tài
liệu, rải truyền đơn trên diện rộng, từ mặt đất và cả trên không trung. Tôi
nghiên cứu phương cách là buộc tài liệu vào cây nhang đang cháy, cột vào chiếc
bong bóng hoặc cột vào chân con chim sau đó thả bay trên không, khi nhang cháy
tới đâu, thì tài liệu tung rơi tới đấy, rơi rải rác khắp tòa nhà cao tầng, trên
cành cây, trên sông… Lúc bấy giờ, công an các tỉnh la hoảng đồn rằng "máy
bay hãm thanh của Mỹ bay qua vùng trời VN rải truyền đơn”. Tôi cho rải từ Cần
Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, cả thảy gồm 4 tỉnh, khiến những tên Cộng
sản đang reo hò, hân hoan vui mừng chiến thắng, cũng phải một phen hú vía kinh
hồn! họ tưởng tới rồi! Đồng bào mình cũng tưởng tới rồi… Ngoài ra tôi còn tổ
chức những buổi giỗ hay cúng lễ tại tư gia, để một số thành viên của các tổ
chức khác từ thành phố Sài Gòn, Biên Hoà và Huế đến tham dự buổi họp bí mật
liên minh sát nhập thành một khối lớn hoặc trở thành cao trào đấu tranh ở khắp
các địa bàn trong toàn quốc.
Vào thời điểm này các anh em
trong mật cứ U Minh đưa ra một danh xưng với tên gọi là “Mặt Trận Dân Quân Phục
Quốc" để nhờ tôi tư vấn. Tôi có ý kiến nên đổi danh xưng thành "Mặt Trận
Nghĩa quân Cứu quốc, Việt Nam Dân Quốc". Sở dĩ, tôi đề nghị thay đổi là vì
tôi mong muốn phong trào nên noi gương “Bình Định Vương Lê Lợi", tức nghĩa
quân Lê Lợi, những chiến sĩ có nghĩa khí đứng lên cứu quốc, chứ không phải chỉ
khôi phục lại cái cũ, theo tôi cái cũ cũng cần phải điều chỉnh và cái cũ vẫn bị
động vì bị lệ thuộc và nếu lệ thuộc hoàn toàn thì sẽ không bao giờ đứng vững
trên đôi chân của mình một khi sự trợ giúp không còn nữa thì ta sẽ bị ngã quỵ
trong cô đơn.
Danh xưng mặt trận tôi đưa ra được
mọi người hoan hỷ tán thành. Kể từ đó tôi được tổ chức quan tâm hơn, họ sắp xếp
hay nói đúng hơn là họ dành cho tôi một vị trí như là cố vấn chính trị của tổ
chức. Sự đề bạt này chính bản thân tôi cũng không hề hay biết. Tôi tự xét bản
thân tôi không phải là người làm chính trị và cũng không có khả năng đảm nhiệm
trọng trách mà anh em đã đề bạt như vậy. Cho đến khi tôi bị bắt, bị điều tra
nhiều lần tôi mới ngỡ ra là có một vài người trong tổ chức bị bắt, trong đó có
cả anh Trịnh Thanh Sơn, đều khai báo với cơ quan điều tra là họ bầu tôi với
chức vụ “Cố Vấn”. Họ thấy tôi giúp đỡ nhiệt tình nên đồng thanh đề cử, mà chưa
tiện việc thông báo cho tôi hay. Chính vì lẽ ấy, nên bản cáo trạng đầu tiên kết
luận tôi là thành phần đặc biệt nguy hiểm và bản án căn cứ vào khoản A của sắc
luật 03 là án Tử hình. Lúc bấy giờ là cao điểm cần trấn áp, xử án thật nặng để
làm gương, cho nên các vụ án chính trị trong toàn quốc khi ra tòa đều bị tử
hình từ 3 đến 5 người, từ đầu vụ tính trở xuống. Nhiều người án tử đã bị đem đi
hành quyết. Riêng bản thân tôi được anh em đề bạt chức vụ cao như vậy, cho nên
cơ quan giữ quyền công tố và tòa án tỉnh Minh Hải qui kết tôi là người đứng đầu
của tổ chức. “Mặt Trận Nghĩa Quân cứu Quốc Việt Nam Dân Quốc” đây là điều mà
tôi không bao giờ lường trước được. Tôi chỉ biết rằng, nếu bất cứ ai đứng đầu
vụ án thì không tránh khỏi cái chết. Đó là thực tế qua các phiên tòa đã xét xử.
Âu cũng là quả nghiệp cả! Tôi
cũng nhận thức rõ điều này nhất là trường hợp gánh vác trách nhiệm “Đứng mũi
chịu sào” thì hậu quả chắc khó lường. Thế nhưng khi ra tòa tôi vẫn mặc nhiên
không cải chính, thôi thì: “Cũng đành
nhắm mắt đưa chân, Thử xem con tạo xoay vần đến đâu!”. Tôi nghĩ rằng nếu
tôi phủ nhận mình không phải là người cầm đầu tổ chức, thì chắc chắn anh Trịnh
Thanh Sơn và một vài nhân sự kế tiếp sẽ bị kết án tử hình. Nếu để các anh em bị
án tử hình, thì gia đình vợ con của họ sẽ bị khốn khổ còn tôi là nhà tu cũng
phải có đức hy sinh dẫu có bị tử hình cũng chẳng sao, vì chỉ là “Sự giải
thoát”.
Hơn nữa, tôi luôn nhớ câu “Ái quốc hà cô duy hữu tinh thần chung bất tử”người yêu nước đâu có tội tình gì chỉ có tinh thần là không chết. Vì luật pháp mà đem những người yêu nước ra xét xử là luật pháp tồi, là luật rừng, là luật của kẻ buôn dân bán nước, là luật của những kẻ đè đầu cưỡi cổ làm hại nước hại dân mà thôi! Còn luật pháp mà đem những người yêu đạo ra xét xử là luật pháp vô đạo, vô luân, là luật của những tên đồ tể, hung tàn! Cho nên nếu có bị tử hình cũng là vinh dự, chứ tôi có làm điều gì tồi bại, xấu xa, khổ dân khổ nước đâu mà mang tiếng nhuốc nhơ muôn thuở! Vả lại, ở trên đời này mỗi khi một chính quyền mới lên thay thế hoặc cướp chính quyền của kẻ khác thì luôn lúc nào cũng tự cho rằng mình là “Chính nghĩa” là “Chơn” còn chính thể bị lật đổ là “tà” là “ngụy” người nào chống lại sẽ bị quy kết là kẻ phản quốc, là kẻ có tội…
Nói tóm lại chỉ vì “quyền lực và lợi lộc” mà người ta mãi phê phán nhau, gán ghép cho nhau những tội đồ “phản nghịch”, phần nhiều thường xảy ra ở chế độ độc tài, không dân chủ. Bản thân tôi tự xác nhận rằng, từ bé cho đến tuổi trưởng thành, tôi không biết chính trị là gì? Tôi chỉ là kẻ xuất gia tu học, là một người yêu nước chứ không phải là một nhà chính trị, hay là một chính khách. Bản thân tôi không có nghiên cứu chuyên sâu về chính trị, cũng may mắn không liên quan giữa cuộc nội chiến Bắc Nam. Nhưng, khi bị bắt vào tù, mang trọng tội đặc biệt là bị khép vào tội Chính trị cũng là một điều hy hữu không ngờ! Tôi vẫn biết chính quyền Cộng sản ác cảm đối với tôi chỉ vì tôi là người trong GHPGVNTN không ủng hộ chính quyền làm sai mà còn đấu tranh đòi hỏi cho quyền tự do tôn giáo nữa, sẵn cớ nầy họ được dịp ra tay. Tôi những tưởng rằng mình xuất gia đi tu là không màng việc thế sự, gác bỏ ngoài tai những tiếng thị phi, xa lánh chốn phồn hoa đô hội, không mơ chuộng công danh, không mưu cầu lợi lộc và chẳng mê say mùi thế tục!
Thế nhưng hoàn cảnh xã hội và
đất nước đã đưa đẩy khiến tôi đành phải bế cửa chùa, lên đàng cứu nguy đất nước
và giải trừ pháp nạn. Tôi còn nhớ một bài thơ tứ tuyệt không biết rõ tác giả là
cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Đức Huỳnh Phú Sổ Giáo chủ Đạo Phật giáo
Hòa Hảo với bốn câu đầy ý nghĩa và rất hợp với tâm trạng mà tôi còn nhớ như in
trong trí não và đã thuộc lòng từ thuở 13, khi thường được nghe những người cao
niên ngâm đọc:
Tôi cũng nghe có người còn định nghĩa “Chính trị là thiết kế chấp hành nhân sinh và điều lý tính nhân toàn thiện mỹ”, có nghĩa là thiết kế xây dựng thực thi theo nguyện vọng của toàn dân, đem đến sự tự do, ấm no, hạnh phúc thật sự cho đời sống nhân sinh. Tôi muốn nhấn mạnh 2 chữ thật sự chứ không phải là từ suông hay rỗng toét. Bên cạnh đó còn uốn nắn, điều chỉnh, hướng dẫn cho người dân trở thành người hữu ích cho gia đình và xã hội. Ngoài ra cũng có người lại định nghĩa ngắn gọn hơn “Chính trị là nghệ thuật (kỹ năng) quản lý xã hội”…
Có điều đáng buồn là 2 từ ngữ Chính trị ngày
nay đã bị người ta lạm dụng, bởi lắm hứa hẹn suông, hoặc nhiều mưu đồ lừa bịp
hay luôn dùng thủ đoạn nên từ đó đã làm giảm mất đi ý nghĩa đẹp của nó. Ngày
nay chính trị bị người ta nhìn một cách hoài nghi, e dè, sợ sệt hoặc đánh giá
một cách méo mó, chứ thật ra nó rất đẹp, rất hay, tự bản thân nó không đen tối
mà do những con người hạ sách lợi dụng đã bôi đen hạ thấp ý nghĩa của nó mà
thôi. Theo tôi thì người làm Chính trị cũng như cầm lái con thuyền đang đi trên
dòng sông hay trên biển vậy. Tùy theo quốc gia nhỏ hay lớn mà ví nó là biển hay
dòng sông, trên thuyền có cả một đoàn người giao mạng số của mình cho người cầm
lái.
Như vậy người làm chính quyền phải đáp ứng những nguyện vọng những nhu cầu cơ bản của dân, chứ không đáp ứng mà lại làm khác đi thì đâu xứng đáng là chính quyền hay chính trị nữa. Thực ra mà nói, nhu cầu căn bản của con người chỉ gồm hai mặt tinh thần và vật chất. Tinh thần đáp ứng với văn hoá và tín ngưỡng, còn vật chất đáp ứng với kinh tế, cho nên bất cứ guồng máy chính quyền nào của bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phục vụ nhu cầu của con người chỉ có hai mặt này mà thôi, dẫu cho chính quyền ấy có bao nhiêu bộ hay ban ngành cũng thế.
Việt Nam cần phải tiến tới
thiết lập một chế độ Dân chủ, tôn trọng những quyền cơ bản nhất của con người,
những quyền này được minh định rõ ràng trong Hiến pháp, phù hợp với luật pháp
quốc tế và Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Để bảo đảm tính chất quốc tế và tiến
trình Dân chủ, đặc biệt Hiến pháp phải được tôn trọng trên thực tế. Điều cần
nhất là phải đưa ra một “đường lối mới” đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người
dân, “Dân là gốc” chứ không phải “Lấy dân là gốc”và nhất thiết phải phù hợp với
xu thế của thế giới mới.
Những ngày sắp bị bắt, trong lòng tôi dường như có linh tính báo trước sắp bị đại nạn. Cuối năm 1978 phụ thân tôi qua đời vì bạo bệnh, gia đình trở nên sa sút các em đông, còn nhỏ dại, mẫu thân tôi sức khoẻ yếu kém và bị bệnh thường xuyên. Mỗi khi về Bạc Liêu châm cứu bệnh nhân tôi thường ghé tạt về nhà thăm viếng gia đình để động viên an ủi các em thơ. Vào ngày 28. 03. 1979 trong lòng tôi bỗng bồn chồn, nôn nao, ngồi đứng không yên, tôi cảm thấy nhớ gia đình, nhớ đến gia nghiêm và thân mẫu, mặc dầu phụ thân tôi đã qua đời cách đây 5 tháng. Tôi vội về nhà đốt nén hương trên bàn thờ cha, vấn an sức khoẻ mẹ già sau đó trở về chùa.
Họ đưa chúng tôi trên một chiếc xe du lịch màu đen, rất cũ kỹ, đã bạc màu sơn, ngồi hai bên chúng tôi có hai tên công an kè sát bên hông, lúc nào cũng cầm súng trong tay lăm lăm. Xe chạy được khoảng một phần năm đoạn đường thì bị hỏng máy nên phải dừng lại bên đường khá lâu. Sau khi sửa chữa xong, xe chạy trực chỉ về tới phòng công an huyện Vĩnh Lợi thì trời cũng đã nhá nhem tối, mặc dầu đoạn đường chỉ hơn 10 cây số. Đến nơi họ sắp xếp cho thầy trò chúng tôi ở hai phòng khác nhau, khi vào phòng tôi ngồi chờ mãi mà chẳng thấy bóng dáng tên công an nào đếm xỉa, hay hỏi han chi cả. Trời dần dần sụp tối, một buổi chiều buồn ảm đạm thê lương. Tôi biết đêm nay mình không thể về chùa được nữa rồi! Họ muốn cầm giữ mình rồi! Khi tối đến khoảng 7 giờ hơn, có một chú công an tuổi khoảng 17-18 đến mời tôi sang một phòng bên cạnh để nghỉ. Bước vào phòng này tôi thấy mọi thứ đều có sự sắp đặt sẵn sàng nhằm để đập vào mắt tôi, thông qua một đòn cân não và trắc nghiệm tâm lý phủ đầu với một cuộc đấu trí bằng một chiến thuật không lời…
Những thứ họ trang hoàng như: một chiếc ghế bố có sẵn mùng, mền, gối, một chiếc đèn nê ông thật sáng. Đặc biệt họ kê một chiếc tủ có 3 ngăn không cửa, bên trong có một quyển tập thơ tựa đề là “Vịnh Đạo Đời“ do chính tôi là tác giả (tập thơ nầy tôi in năm 1973 để ấn tống dày hơn 100 trang), một số mặt nạ chống hơi độc cùng vài tấm bản đồ tỉnh Minh Hải, bản đồ quân khu IV, (đây là bản đồ cũ của chính quyền sài gòn do Nha đồ Bản in ấn ), cùng một số vải may cờ. Nói chung, tất cả những thứ nầy đều do chính tôi là sở hữu chủ, những món này tôi gởi vào rừng sâu cho các anh em trong tổ chức. Hôm nay nhìn thoáng thấy lại những món đồ nầy qua cách trưng bày của họ tôi đã biết họ muốn gì rồi! Đây là nghiệp vụ sơ đẳng của những tên cán bộ điều tra trước khi khai thác, việc nầy chẳng có chi là lạ cả! Đêm ấy, tôi cảm thấy hơi khó ngủ, mỗi khi suy nghĩ tới những món đồ đang nằm trong tủ đối diện tôi. Dường như nó thông báo cho tôi biết tôi sẽ bị tù, bị kết án chứ không phải là việc bình thường nữa đâu! Sáng hôm sau, lúc tôi thức dậy, họ lại ra lệnh chuyển tôi qua một phòng khác và khoảng 3 giờ chiều ngày 30/3/1979 có một chiếc xe du lịch bóng loáng mới toanh màu trắng từ tỉnh Minh Hải đến áp giải một mình tôi về cơ quan Bảo vệ Chính trị tỉnh. Người áp giải là thượng uý Trần Trung Thu, Phó phòng bảo vệ chính trị cuả công an tỉnh. Khi đến đây họ cho tôi tạm nghỉ ở một phòng làm việc, trong phòng này có hai chiếc giường, một chiếc cho tôi nằm, còn chiếc kia là một sĩ quan thiếu uý trông giữ canh chừng tôi.
Tôi đến gặp tất cả mọi người.
Họ trố mắt nhìn tôi, nhìn từ đầu đến chân với một thái độ hết sức ngạc nhiên,
tưởng chừng như tôi là người từ một hành tinh lạ vừa mới xuất hiện xuống quả
địa cầu này, hoặc giả họ là những người đầu tiên mới đến tham quan sở thú là
phải. Bởi vì 5- 6 ngày qua bản thân tôi mất ăn thiếu ngủ bởi lạ chỗ, gương mặt
hốc hác, quần áo đã bốc mùi hôi vì không được giặt giũ, thân thể gầy đi thấy
rõ, tôi cảm thấy người hơi choáng váng bước chân đi lảo đảo, loạng choạng như
người say rượu.
3. Trại giam huyện Vĩnh Lợi tỉnh Minh Hải, nhà tù đầu tiên…
Khoảng tuần lễ sau, chính anh
Nguyễn Hữu Phước cũng là người áp giải tôi trực tiếp đến nhà tù Vĩnh Lợi, để
bàn giao cho anh trưởng cai ngục. Lúc đó tôi bị 2 tên công an trại giam lục
soát khắp thân thể họ tịch thu tất cả giấy tờ tùy thân, các loại giấy tờ có
liên quan đến sở hữu tài sản đất đai của ngôi chùa Vĩnh Bình, chứng minh thư tu
sĩ, giấy bổ nhiệm trụ trì… công an cởi áo tràng, và cởi cả bộ quần áo tôi đang
mặc. Trong mình tôi chỉ còn lại duy nhất chiếc quần đùi, tên trưởng trại ra
lệnh đưa tôi vào phòng giam số 2, còng hai tay tôi bằng chiếc còng số 8 và
quyện hai chân bằng hai khoen sắt. Sau đó họ đóng cửa rầm rầm và bỏ đi ra. Tại
phòng giam số 2 nơi đây, thật sự là địa ngục trần gian đối với tôi kể từ giờ
này. Khi vào phòng tôi bị quyện chân chung một xâu quyện với khoảng 5-6 người,
những người này đều mang tội “chính trị” chưa bị kết án nhưng bị cùm kẹp liên
tục ngày đêm hơn 4 năm rồi! Thân thể họ tiều tuỵ, gầy guộc xanh xao, nước da
tái nhợt, đôi chân teo tóp và gần như bại liệt, đôi mắt hõm sâu, nếp nhăn hằn
in trên vầng trán, râu tóc đã bạc nhiều. Khi 2 tên công an ra khỏi phòng thì
mọi người mới bắt tay, vồn vã, hỏi thăm tự sự thái độ niềm nở và rất thân tình.
Họ rất chú tâm và nôn nóng hỏi tôi cũng như lắng nghe tôi trình bày về mọi tin
tức diễn ra bên ngoài, chứng tỏ mọi người rất thiếu thông tin từ lâu. Thỉnh
thoảng họ tỏ nụ cười tươi, vui mừng phấn khởi… nhưng chỉ là dáng vẻ bề ngoài
chứ bên trong lòng họ đang chất chứa nỗi u buồn lẫn sự khát vọng tự do.
Người tù mới vào, bất luận là ai cũng phải nằm kề hũ, rồi mới dần dần tiến lên chỗ khác, chỉ ngoại trừ trường hợp có nhân viên công an hay ban giám thị trực tiếp đến phòng qui định chỗ nằm cho cá nhân nào đó là ngoại lệ. Theo kinh nghiệm của tôi, nếu tù chính trị mà được chỉ định chỗ nằm thì ta phải đề phòng dè chừng. Những người nằm bên cạnh ta, hầu hết là người của họ cài vào đang thực hiện “Khổ nhục kế” để thăm dò ta đấy! Hoặc là chỗ của ta đang nằm mà bất thình lình họ đưa người tù mới bị bắt vào để nằm kề bên ta cũng có thể là người của họ nữa. Ngoài ra được qui định chỗ nằm tốt, phần lớn là thân nhân của công an, của những gia đình có thế lực hay những viên chức có quyền thế bị vi phạm pháp luật hoặc là những người tù được sự gởi gắm thì họ sẽ hưởng ưu tiên hơn. Thậm chí chỉ cần quen biết với tên tù trưởng buồng giam hay người có tiền, vật chất biết cư xử với họ cũng sẽ được chỉ định chỗ nằm thoải mái hơn, được giúp đỡ về mọi sinh hoạt… Ở Việt Nam từ ngoài xã hội cho đến trong nhà tù, nếu có tiền, có quyền và có thân thế sẽ là diện ưu tiên số 1, một xã hội đầy dẫy bất công…
Thậm chí khi khát nước cũng cứ múc lên mà uống. Khi nói ra điều này ngồi nhớ lại một vài cảnh tượng trong dạ cảm thấy buồn nôn muốn nhợn ra cổ họng. Hình dung lại sao thấy tởm lợm quá đi thôi! Cái ao này nữ tù cũng thường xuyên tắm giặt, giặt đủ mọi thứ trên đời kể cả tấm tã lót của các cháu bé, nước ao càng ngày càng bị cạn và đục ngầu, nhưng mọi người tù khát nước cứ tự nhiên múc lên mà uống, uống một cách ngon lành, dường như chẳng có suy nghĩ chuyện gì đã xảy ra. Chưa nói gần đó có một chuồng heo hơn 10 con và có đường nước thải của nhà bếp kề gần. Còn cơm của trại nấu toàn là mùi cá khô loại cá biển tanh rình, tanh tưởi thật khó nuốt. Bởi người tù ở huyện Vĩnh Lợi không được tự hâm nấu mà chỉ gửi nhà bếp giúp dùm. Nhà bếp hấp tất cả thức ăn bằng cách cho vào chảo cơm hàng bữa. Từ khi sanh ra cho đến lúc ấy, tôi chưa từng phải chịu cái cảnh ngặt nghèo như thế này! Những ngày đầu tiên khi ăn cơm vào, là tôi nôn mửa ra hết nhưng dần dần phải quen thôi! Vì ăn để mà sống là bản năng sinh tồn của con người. Vả lại, phải cần có sức khoẻ tối thiểu thì trí tuệ mới hoạt động được, nếu thân thể bị suy kiệt thì làm sao trí óc minh mẫn được…
Một lần tôi đang bị điều tra tên cán bộ hỏi cung bực tức vì muốn bức cung nhưng không được như ý, anh ta lăm le hăm đánh tôi. Chưa gì, thì tên công an loại 30/4/1975 này đứng gác bên cạnh đã nhảy tới đá thẳng vào mặt tôi và hai tay ra đòn theo kiểu “Thôi sơn thủ” của Thiếu lâm Bắc Phái. Buộc lòng tôi phải bước nhẹ sang né tránh nếu không thì gương mặt thầy tu này về phòng sẽ bị anh em gọi là “cái mặt bị ăn trầu”. Sau đó, tôi lên tiếng một cách mạnh dạn rằng “Xin lỗi anh vì tôi đang ở tù, chứ cở 2 người như anh cũng không thể là đối thủ của tôi nếu muốn công bằng mà tỉ thí". Anh ta nhìn chằm chằm, nhưng trong lòng ắt vẫn còn hậm hực, rồi bỏ đi, sau khi anh được tên cán bộ điều tra ra lệnh.
Trại giam huyện Vĩnh Lợi trước
đây được xây dựng trên nửa đoạn đường từ Bạc Liêu đến Thị trấn Hòa Bình, gần
cánh đồng ruộng lúa mênh mông. Người tù phần đông bị cưỡng bức đi làm ruộng,
đào ao, khuân đất, làm lò gạch, chăn nuôi hoặc là đi chài cá, kéo lưới bắt cá
đem về cho cơ quan công an huyện… Tôi ở tại đây chỉ khoảng 1 tháng thôi, mà
chứng kiến nhiều chuyện bất bình, trái tai gai mắt, biết bao nhiêu sự trù dập
bất công. Lúc này bản thân tôi, mới thấm thía với câu mà ông bà ta thường nói
“Nhứt nhựt tại tù thiên thu tại ngoại” nhất là vào những đêm dài nằm thao thức
trằn trọc, phải đối phó với nhiều việc đang dồn dập lo âu trăn trở trong lòng,
cho nên không sao ngủ được. Đêm nằm nghe những tiếng thạch sùng tắc lưỡi, tiếng
côn trùng rên rĩ ngoài hiên, tiếng kêu huênh hoang của ểnh ương từ xa vọng lại
nghe thật là buồn thảm hòa lẫn vài tiếng tắc kè và những đàn muỗi bay quanh kêu
vo ve khắp phòng giam như đang bị bắt buộc, thưởng thức một buổi đại hòa tấu
với những khúc nhạc não nùng ai oán bi thương.
4. Giải cứu tù nhân trại giam bị thất bại.
Trong thư tôi bảo em tôi mang theo vũ khí và tìm
một số người tôi giới thiệu trong tổ chức đang còn hoạt động bên ngoài đến giải
cứu chúng tôi tại trại giam huyện Vĩnh Lợi. Khi nhận bức thư trên anh Tiết Sa
Rết hứa hẹn trong nội nhựt sẽ trở về báo lại kết quả. Nhưng, anh lại phản bội
lời giao ước và đem bức thư trên nộp cho Ban giám thị trại giam để lập công
chuộc tội, bức thư đến tay giám thị cũng đồng nghĩa với sự tố giác trực tiếp là
tôi đang có âm mưu liên lạc với bên ngoài để tổ chức cướp trại giải thoát tù
nhân. Cho nên, khi buổi chiều lao động xong, đáng lý ra anh Rết phải trở về
phòng, nhưng anh lại được thuyên chuyển vội vã sang phòng khác. Lúc ấy tôi
những tưởng anh bị di dời bất ngờ nên chưa trả lời kết quả cho tôi. Tình thật,
một lần nữa tôi còn ít tiền và quà gia đình vừa gởi đến tôi lại biếu hết cho
anh để bày tỏ sự cảm ơn. Nào ngờ mọi việc lại ngỡ ngàng vượt quá sức sự tưởng
tượng của tôi.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét