THUNG LŨNG TỬ THẦN!
Có điều thật kỳ lạ là những trại tù, nơi
địa ngục trần gian mà lại mang cái tên thật đẹp nhưng lại rất oái oăm trái
khoáy đối với những người tù. Trại tù, địa ngục trần gian mà lại có tên là Xuân
Lộc, sau này đến một trại kỷ luật “Trừng giới” nơi có biệt danh là “Thung lũng
tử thần” cũng có một cái tên đẹp, thật đẹp là Xuân Phước. Thung Lũng Tử Thần là
tận cùng địa ngục trần gian, nơi mà có 5 vị linh mục đã chết trong biệt giam và
cả ngàn ngôi mộ của anh em tù nhân, nơi tập trung giam giữ những đối tượng số 1
của Cục quản lý trại giam thuộc bộ Nội vụ như Linh mục Nguyễn văn Vàng, TT
Thích Thiện Minh, Linh mục Nguyễn văn Luân, Võ sư chưởng môn Vovinam Lê Sáng,
ký giả Vũ Ánh, nhà văn Đỗ văn Phúc, Đại uý Pháo binh Dù Lê Thái Chân, Phan văn
Bàn người tù 30 năm và nhà thơ Vũ Đình Thụy mới ra tù cách đây 2 tháng sau 18
tháng bị bắt làm tù binh và 29 năm 2 tháng 11 ngày vì tội lật đổ chế độ, vị chi
tổng cộng là 30 năm 8 tháng 11 ngày.
Vũ Đình Thuỵ là người mới được giải thưởng
văn học VASYL STUS “ Quyền tự do viết văn 2007” và được mời là Tân Hội viên
danh dự của Trung tâm Văn bút Hoa Kỳ/ PEN New England … là những người bị tử
thần né mặt nên còn sống đến bây giờ:
“Ai đã đến để một đời nhớ mãi
Ai đã qua nơi địa ngục trần
gian ...
Ai đã sống những tháng ngày
khốn khó,
Thần chết rập rình, địa ngục
đâu đây!”
Phải chăng đây là sự tình cờ mỉa mai nào
đó vô tình đã nói lên cái bản chất thật, cái bộ mặt giả nhân giả nghĩa của Cộng
Sản. Kinh nghiệm xương máu và nước mắt của hơn tám mươi triệu dân Việt Nam là
không những đừng bao giờ nghe những gì Cộng Sản nói mà phải hiểu ngược lại
những gì Cộng Sản nói như thiên đường xã hội chủ nghĩa thì ta phải hiểu là Địa
ngục trần gian, tự do phải hiểu là lệ thuộc là kềm kẹp, dân chủ là chủ dân, tự
do là nô lệ, đầy tớ là chủ nhân, làm chủ là làm công, ấm no là đói rét, hạnh
phúc là bất hạnh khốn cùng ... vân vân và vân vân … Đại khái nó cũng giống như
dân Sài Gòn mình bây giờ hễ thấy chỗ nào đề “Cấm đổ rác” thì rác ngập tràn
thành từng đống, chỗ nào có đề bảng “Cấm đái” thì cứ tha hồ mà đái vì uống bia
đầy bụng rồi mà tìm không có một nhà vệ sinh nào thì một hai ba … Alê … tham
quan “Lăng Bác” ngay bất kể bàn dân thiên hạ qua lại.
Trại tù Xuân Phước nằm ở vùng rừng núi Phú
Yên Tuy Hoà gần giáp với biên giới Lào Việt. Trại được dựng lên ở giữa thung
lũng bao quanh là rừng gai với tám ngọn núi cao nên bạn tù gọi là thung lũng tử
thần. Một điều kỳ lạ là giai cấp thống trị nào cũng tinh ma quỉ quyệt như nhau.
Thời Pháp thuộc có khám Chí Hoà được xây theo đồ hình bát quái để trù yểm không
cho tù nhân nào vượt ngục được. Trại trừng giới kỷ luật Xuân Phước được chọn
nằm dưới thung lũng có 8 ngọn núi cao bao quanh, vừa bước vào cổng trại người
ta thấy ngay một hồ nhỏ có dựng một đền nhỏ mà theo dân chúng quanh vùng thì đó
là chỗ bọn giám thị cai tù trại giam đã mời thầy pháp đến để làm bùa trù ếm tù
nhân.
Bọn cai tù cộng sản còn thâm độc hơn ngoài
việc trù ếm chúng còn bắt tù nhân phải đi chân đất lúc đi lao động vì chung
quanh là rừng gai thì chân trần chỉ đi vài giờ là chân sưng tấy lên vì gai độc.
Mặt khác chúng yêu cầu các xã xung quanh tuyên truyền là trại chỉ nhốt tù hình
sự, bà con phát hiện phải báo ngay không thì chúng nó giết người cướp của để
trốn trại. Trại còn thưởng cho một tạ gạo và cái mền nên mỗi khi có tù vượt
ngục là bà con đồng bào thiểu số ngây thơ rủ nhau đi lùng bắt tưởng là cướp lại
được thưởng mền gạo đối với dân sơn cước nghèo nàn là cả một gia tài kếch sù
rồi...
Lịch sử trại Xuân Phước chỉ có một vài vụ
trốn thoát còn bao nhiêu đều bị bắt lại và chung quanh trại là một nghĩa trang chiếm
mấy ngọn đồi với những ngôi mộ cao hơn mặt đất một chút, không bia mộ của mấy
ngàn anh em bỏ thây vì đói khát, bệnh tật, tra khảo đánh đập nơi tận cùng của
địa ngục trần gian này. Trong điều kiện lao lực vất vả, không đủ ăn, cơ thể suy
kiệt nên dễ nhiễm bệnh mà bị bệnh không thuốc men chữa trị, không thực phẩm bồi
dưỡng thì khó mà qua được.
Trong tù mỗi khi đến mùa Đông giá lạnh
buốt xé da người, lần mò trong bóng tối mù mờ nhìn thấy mấy ông bạn tù lớn
tuổi, ngủ không được nên ngồi còng lưng ôm lấy 2 đầu gối co ro suốt đêm trường
giá lạnh. Các cụ già này tuy không nói ra nhưng ai cũng lo lắm sống với một tâm
trạng u uẩn vì ngày nào cũng có tin người này chết người kia chết:
Trông thấy người khác chết,
Trong lòng rất
xót xa.
Nửa thương xót
kẻ chết,
Nửa nghĩ tới
phiên ta!
Một nhân chứng sống Thượng toạ Thích Thiện
Minh, người tù lương tâm kể lại chính bản thân Thượng toạ bị bọn công an cuồng
tín, bọn sát nhân bẩm sinh đánh đập tra tấn dã man ở nơi tận cùng địa ngục này:
“Tôi
còn nhớ như in chúng dẫn tôi ra khai thác để điều tra hòng bắt thêm anh em cùng
vụ trốn trại với tôi. Cả ba tên đao phủ đánh tôi bằng tay chân tới tấp vào bất
kể chỗ nào trên thân thể, đầu mặt … buộc lòng tôi phải quay lưng vào vách lá
của căn nhà cất liền nhau để có thể chống đỡ phía trước mặt. Không ngờ phía
vách lá sau lưng tôi có một tên đã trực sẵn, hắn đã dùng họng súng dài thúc
mạnh vào lưng trúng ngay lá phổi làm tôi bị trọng thương, té ngất xỉu, máu tuôn
ướt cả áo quần. Sau khi tỉnh dậy những tên hung thần này không cho tôi thay
quần áo, tôi đành mặc áo dính máu cho đến khi rách nát. Hậu quả vết thương lá
phổi của tôi bây giờ vẫn còn dây dưa chưa dứt hẳn nên tôi thường đau buốt và ho
liên tục mỗi khi trái gió trở trời. Mặc dù thương tích khắp người nhưng mấy
ngày sau tên Tri là cán bộ an ninh trại đã lấy dây điện có ruột bằng đồng rất
to, y đánh tôi 99 roi điện vì nó đếm thiếu một roi. Tôi cắn răng chịu đựng từng
roi một, đầu dây điện thường quất vào hông, nách vào những chỗ hiểm yếu của cơ
thể. Sau khi khai thác tôi không khai thêm người nào nữa chúng mới truy tố tôi
ra toà với tội danh “Chống phá trại giam”.
Trại
tù Xuân Phước là nơi đa số các cán bộ Cộng Sản bị kỷ luật mới đổi đến đây và
cũng là "Trại Trừng Giới" đối với những tù nhân cứng đầu mà chúng gọi
là 'Bất Trị'. Tại đây, kỷ luật không cần phải có lý do, ốm đau không 'Cần'
thuốc men, bệnh nặng không được đưa ra bệnh viện Tỉnh chữa trị và chết chóc là
chuyện bình thường đối với trại. Tiêu chuẩn kỷ luật xà lim mỗi ngày họ phát cho
4 người mỗi người một lon guigoz nước để uống, tắm rửa và mỗi bữa ăn được cấp
phát nửa chén cơm và 3 lát khoai mì công nghiệp H 34 chan ngập nước muối đậm
đặc, nước muối nhiễu xuống nền gạch đọng trắng bọt muối. Trong kỷ luật hoàn
toàn thiếu chất rau tươi nên mọi người đều bị bệnh sưng phù, tê bại, mờ mắt,
ghẻ lở lao phổi … Mỗi lần đi đổ hũ vệ sinh, tôi nhanh tay với hái một nắm cỏ
mầng trầu hoặc loại cỏ nước mặn, loại cỏ tạp cho bò ăn nên nhiều khi còn dính
phân người, tôi lén đem vào phòng lấy nước rửa sơ rồi chia nhau mỗi người vài
cọng để nhai gọi là có chút rau tươi, chúng tôi ăn cỏ mà cảm thấy ngọt vô cùng
..!” .
Một sự thực đau lòng là vào những năm 1979,
1980 thì ngày nào thung lũng tử thần cũng có vài anh em ra đi, mỗi khi có người
chết thì vài ba thanh niên tình nguyện đi khiêng quan tài, dĩ nhiên là anh em
tù phải thương nhau nhưng được nghỉ một bữa và nhất là lại được chia nhau nắm
cơm trái trứng của người chết thì còn gì để nói, hở trời!
Khi tôi vừa chuyển tới “Thung lũng tử
thần” thì trại bán thịt bò cho những trại viên có tiền đăng ký ở căng tin.
Không phải tốt lành gì, để “bồi dưỡng” đâu mà bọn cán bộ kể cả giám thị lấy
thực phẩm nuôi tù, lấy công tù lo chăn nuôi rồi đem bán lại cho những tù nhân
có tiền với giá cắt cổ. Đặc biệt là bò heo bán thì con nào con đó mập ú, còn
một năm 2,3 ngày mà chúng gọi là “Lễ lớn” nghe thông báo trại thịt 4 con bò thì
con nào con nấy chỉ to hơn con heo một chút!. Thế mới thấm thía cái câu anh em
thường nói: “Nước sông công tù” mà ...
Tôi còn nhớ là hôm đó đúng ngày tôi ăn
chay nhưng còn bao nhiêu tiền gửi trong căng tin nhân cơ hội này lấy mua hết.
Bao nhiêu thịt mua về giao cho Phạm Thế Công cắt ra mỗi phần khoảng 2-3 trăm
gram chia cho những anh em thiếu may mắn mà trong tù chúng tôi gọi là con ni
cô, con bà phước … Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ những khuôn mặt mừng rỡ khi nhận
từng miếng thịt. Đời sống trong tù suốt năm ăn “canh đại dương” gồm mấy cọng
rau thêm tí muối chứ làm gì có bột ngọt, thịt mỡ gì. Số thịt mua về, phần thịt
còn lại đem nấu cháo rồi đi ngang treo lên hàng rào bệnh xá, người bệnh làm bộ
đi dạo rồi lấy vô, ăn xong lại treo lên. Cả bệnh xá được một bữa cháo nóng sốt
hả hê. Có tin cha Vàng mới ra bệnh xá nhưng người chỉ còn da bọc xương, nằm
liệt một chỗ nên không ra phơi nắng được. Sau mấy tuần chúng lại đưa vào xà
lim, tháng sau thì chết vì kiệt sức té ngã quị xuống trong xà lim …
Đã gọi là ở tù thì làm sao mà no đủ cho
được thế nhưng ở tù cộng sản còn thê thảm đói khát vô cùng nên mỗi lần đi lao
động, anh em ta gặp bất cứ con gì ngoại trừ con ốc bù lon bằng sắt, còn con gì
nhúc nhích được đều ăn tươi nuốt sống liền từ con mối đến con nhái bầu dai như
đỉa cũng không tha… Mỗi năm khoảng 3 lần tù nhân được ăn ngày “Lễ lớn” mỗi
người được một miếng khoảng 2 trăm gờ ram. Nói thì khó tin nhưng tù nhân dù
ghét cay ghét đắng cái gọi là "Nễ Nớn", tuy không nói ra chứ ai cũng
mong đến ngày “Lễ lớn” mới đau chứ. Đó là một sự thực, một sự thực phũ phàng,
từ đó chúng ta mới hiểu rõ hơn cái gọi là “Chính sách bao tử” của cộng sản thâm
độc, nguy hiểm tới dường nào.
Ngoài đời thì chúng áp dụng chính sách tem
phiếu “xiết bao tử, khống chế dạ dày” khiến cha mẹ phải thúc ép con cái đi
nghĩa vụ lên đường đi vào chỗ chết vì khẩu phần gạo đã bị cắt, người con thì
không nỡ vì mình mà gia đình đã đói lại phải đói hơn. Tốt nhất là tình nguyện
đi nghĩa vụ quân sư để khỏi làm gia đình phiền khổ thế thôi. Chế độ tem phiếu
khiến người dân bị lệ thuộc từ hạt muối, viên đường đến tấc vải lưng quần manh
áo … thật khốn khổ làm sao. Chẳng thế mà sau mấy chục năm trời sống dưới sự kềm
kẹp thống trị của cộng sản bạo tàn, người dân miền Bắc chỉ biết ngậm ngùi than
thở:
“ Bắt ở trần phải ở trần,
Cho “
May-ô” mới được phần “may-ô"[1] .
Mỗi năm ba
tấc vải sô,
Lấy gì che
kín “cụ hồ” em ơi ..!”
Vì không có đủ vải để may quần nên từ anh
bộ đội đến chú công nhân nhà ta cứ để “cụ Hồ” tồng ngà tồng ngồng vì vậy, lúc
nào cũng muốn đề nghị đồng chí vợ họp “chi bộ hai người” để “tranh thủ hơi ấm”
nghĩa là làm cái chuyện trời cho đó. Vì thế, có một nghịch lý lạ đời là đồng
bào miền Bắc sau bao nhiêu năm sống nghèo đói khốn khổ dưới chế độ cộng sản bạo
tàn, thế mà cái khoản “Đẻ đái” thì lại hơn bà con ta ở miền Nam tự do nhiều. Ô
hô ai tai … nghe thấm thía mà cũng thú vị làm sao ...
Cá nhân tôi, tuy có phần may mắn hơn anh em
là có gia đình thăm nuôi đầy đủ nhưng gần 9 năm nằm trong xà lim, đã từng biết
cái đói như thế nào. Càng cố gắng nén cơn đói thì cái đói cồn cào lại cồn cào
hơn, cố nuốt nước miếng thì nước miếng cứ tuôn ra nên lại phải nuốt thèm thế
thôi. Nằm trong cùm bụng đói teo thế mà một tháng 4 lần trại cho tù “bồi dưỡng”
một bữa thịnh soạn thực đơn chỉ gồm một món duy nhất là “Rau muống xào Tỏi” là
chúng tôi sướng rên người. Nhất là cái mùi dầu phi tỏi theo gió bay vào khu
kiên giam thì cả xà lim tỉnh hẳn ra. Ôi 'cái mùi chết người ấy' nó cám dỗ làm
sao? Nó làm ta thấp thỏm đợi chờ, bụng đói cồn cào nhức nhối, nước miếng trào
ra, càng cố nuốt vào thì lại tràn ra nhiều hơn... Nó khó chịu đến độ có anh em
hết ngồi rồi lại nằm cũng chịu không được nên phải nhai 'Hàm thụ' cả mùng mền
chờ giờ ăn tới ...
Trước khi vào khu kiên giam, tôi sống chung
với Thượng Toạ Thích Thiện Minh, hai anh em sống với nhau được một thời gian
thì “Thầy Ba” vào kỷ luật trước, tôi vào sau. Lúc sống chung mỗi lần thăm nuôi
chừng 1,2 bao đem vào chia ra uỷ lạo anh em rồi ăn chừng một tháng là hết cả
nước tương. Thầy Ba thuộc loại “Uy tín” lắm mới được anh Châu ở đội 5 tự giác
liều lĩnh tiếp tế cho một miếng cặn bã dừa sau khi ép lấy dầu dừa anh em thường
gọi là “cứt dừa”. Thầy Ba bỏ vào gô đổ nước muối vào rồi đun lên để nguội là ta
có “nước tương tù” liền. Anh em ăn được một tháng rất ư là khoái khẩu thì tình
cờ sau bữa ăn, thầy Ba nhìn tôi nói “Ủa
sao răng ông Anh đen quá vậy?”. Tôi cũng không để ý nhưng nghe nói vậy tôi
nhìn thấy răng của ông ấy cũng đen vì chất cứt dừa bám vào, có đánh răng cũng
không sạch được. Từ đó, biết vậy tính không ăn nhưng chan nước muối đại dương
vẫn khó nuốt hơn là có một chút màu mè để mình tự đánh lừa thị giác, vị giác
của mình ăn cho ngon miệng. Bây giờ nghĩ lại thấy buồn buồn tự nhiên nở nụ cười
thấm thía làm sao …
Thời gian cùm còng tù tội và cảnh đói khát
của anh em tù nhân khiến tôi sang Mỹ mấy năm trời mà sau mỗi bữa ăn là dồn và
để mai ăn tiếp, không dám đổ thức ăn đi mà nói đúng hơn là không đủ can đảm đổ
thức ăn dư thừa vì nghĩ tới anh em mình còn đang sống lây lất trong tù. Cô vợ
tôi, mới đầu cũng thường cằn nhằn tôi vì tối nằm ngủ cứ gác tay lên trán và cứ
dồn thức ăn thừa bỏ vào tủ lạnh. Đến khi tôi nói là em biết không, hậu quả của
thời gian cùm 2 tay nên lúc ngủ phải để lên trán mới ngủ được rồi nghĩ tới cảnh
anh em còn đang đói khát trong tù nên mới dồn thức ăn lại như một phản ứng tự
nhiên thì cô ấy mới hiểu và thương tôi hơn.
Làm sao chúng ta có thể hiểu được là tại
sao người tù, mỗi bữa ăn chỉ được lưng lưng chén nhỏ bo bo hoặc khoảng hơn 300
hạt bắp mà vẫn sống còn được. Chỉ lưng chén nhỏ bo bo mà nhai cả hàng giờ, nước
miếng tiết ra chất dịch vị, ôi nó ngọt làm sao ... Ngay cả bây giờ, dù có ăn cao lương mỹ vị cũng không tìm được cảm giác
ngon lành tuyệt vời của một thời khốn khó đã qua ... Ôi, cái nỗi "Đoạn
Trường' đứt ruột mà ai có ở tù mới hay", đó chính là "Hội Chứng Ủ
Tờ" mà 'may mắn' lắm mới được hưởng trên cuộc đời này!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét