THỜI THƠ ẤU
ôi Tỳ kheo Thích Thiện Minh, thế
danh Huỳnh Văn Ba sinh ngày 29 tháng 8 năm1955, tại xã Vĩnh Lợi, huyện Vĩnh
Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Thân phụ là Ông Huỳnh Văn Cầm, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị
Khéo. Tôi có 7 chị em, chị gái lớn thứ hai, em gái kế tôi thứ tư và 4 em trai. Tôi
xuất thân trong gia đình đạo đức, cha tôi có tấm lòng nhân hậu, tánh tình rộng
rãi hay giúp người, mẹ tôi một người đàn bà hiền thục, mẫu mực vất vả quanh năm
vì chồng vì con cho đến cuối đời. Song thân tôi vốn là tín hữu Đạo Cao đài,
trực thuộc Tòa thánh Tây Ninh, phụ mẫu tôi thường đi lễ bái ở Thánh thất hoặc ở
các đền, chùa trong những ngày "Tam nguơn Tứ quý".
Từ bé tôi đã được
sự hấp thụ giáo dục và uốn nắn của gia đình, đặc biệt là sự nghiêm huấn của phụ
thân. Cha mẹ tôi có một thời phải rời nơi chánh quán Bạc Liêu để tha hương lưu
lạc, lập nghiệp nơi xứ lạ quê người, tận đến tỉnh Trà Vinh, còn gọi là tỉnh
Vĩnh Bình, hai chữ "Vĩnh Bình" cũng là tên của ngôi chùa “Vĩnh Bình”
tôi làm trụ trì cách đây 26 năm về trước tại tỉnh Bạc Liêu. Tên ngôi chùa là để
ghi nhớ lại những dấu ấn mang nhiều kỷ niệm của những ngày thơ ấu, khi tôi bắt
đầu tập tễnh đi chùa lạy Phật, đọc kinh. Tôi xin lược thuật lại câu chuyện sau
đây...
Năm lên sáu, bảy tuổi, tôi còn nhớ ở nơi đây, ngang nhà tôi
trong làng thuộc ấp Long Bình, xã Phú Vinh, huyện Châu Thành tỉnh Vĩnh Bình có
một người chị hàng xóm tên là Điệp khoảng trên hai mươi tuổi. Hằng đêm chị
thường dắt tôi cùng một vài bạn trẻ trong xóm, trạc tuổi tôi đi ngang những
hàng cây "Cồng" loại cây cổ thụ lâu đời, cành lá xum xuê, dưới gốc
cây um tùm cỏ dại, trông rất rợn người nhất là về ban đêm rồi còn phải qua dốc
cầu Long Bình, để đến chùa Long Khánh đọc kinh lạy Phật. Chính tại nơi đây tôi
được xem bộ phim "Lược sử Đức Phật Thích Ca, từ Sơ sinh cho đến Thành Đạo",
được Chùa Long Khánh tổ chức trình chiếu nhân những mùa Phật Đản hằng năm. Tôi
thường đi theo cộ xe hoa cùng hàng đoàn người đi dạo khắp các ngã đường trong
tỉnh lỵ.
Từ bé, tôi đã cảm thấy thích thú say sưa khi nghe tiếng tụng kinh rất
thánh thoát với giọng đọc trầm bổng của quý Cô, quý Thầy, tiếng mõ với những âm
thanh đều đặn và tiếng chuông chùa ngân nga êm ái, làm lắng đọng cả tâm hồn.
Khói hương nghi ngút xông lên bay lượn trong một khoảng không gian thu hẹp
phảng phất thoang thoảng mùi trầm, dưới mái chùa trang nghiêm thanh tịnh, bên
cạnh những pho tượng từ bi của chư Phật và những hoa văn tinh xảo của 4 chữ
"Đại Hùng Bửu Điện" hòa lẫn với những nét kiến trúc độc đáo của ngôi
chùa cổ hơn trăm tuổi, càng làm tăng thêm vẻ cổ kính tôn nghiêm.
Bá tánh thập phương đến viếng chùa khi nhìn thấy cảnh trí,
cảnh sắc, cảnh quan của ngôi tam bảo thì tự nhiên cảm thấy lòng mình như thoát
tục, sẽ giải trừ bớt những đam trược của cuộc đời và quên đi phiền não, muốn
huân tập đạo lý, giữ gìn phẩm hạnh, quyết tâm tu học bằng trí tụê tự giác, tự
tỉnh trong niềm vui đạo vị để mong sớm thoát khỏi cảnh bể khổ trầm luân. Đặc
biệt lúc còn bé tôi nhìn chiếc áo nâu sòng sao đẹp quá và tự nhiên muốn mặc
quá! Tôi có ý nghĩ trong lòng và ước mơ thầm kín, ước gì sau nầy mình sẽ được
đi tu. Nhưng có điều ngài ngại là mỗi khi đến chùa trông thấy ông thầy trụ trì,
thì tôi né tránh không dám đến gần, không dám nhìn thẳng mặt Thầy, lúc ấy tôi
sợ lắm! Vì thầy trụ trì có hàm râu quai nón, đôi mắt sáng quắc như hai vì sao,
trông nét mặt, cử chỉ và cách nói năng rất từ tốn, điềm đạm và nghiêm trang,
oai nghi tế hạnh, ít đùa cười!. Lúc đó tuổi thầy ước chừng khoảng 40-50. Tôi
nhớ mang máng dường như Pháp danh là Thích Hoằng Thông? Nếu giờ nầy Ngài còn
sinh tiền ắt là vị Đại lão Hòa Thượng khoảng chừng 80-90 tuổi...
Thế rồi, thời
gian vài năm sau, song thân tôi lại rời tỉnh Vĩnh Bình về quê Bạc Liêu. Tôi
cũng từ giã con đường mòn cũ, của những ngày thơ ấu cắp sách đến trường. Tôi
đến chào thầy, chia tay bạn cùng lớp và từ biệt người chị hàng xóm kính yêu và
cũng không quên chia tay vài người bạn trẻ thiết thân thường rủ nhau đi chùa lễ
Phật hôm nào! Tôi cảm thấy một nỗi buồn rười rượi, rộn rạo, xao xuyến trong
lòng, khi phải rời xa nơi có nhiều kỷ niệm, lưu luyến mến yêu. Tôi đến nhà chào
chị lần cuối trước khi xuống ghe, cùng cha mẹ, theo dòng sông Cửu long, xuôi
thuyền về đất Bạc! Chị ôm tôi vào lòng, tôi bật khóc…
Nét mặt chị buồn buồn và
mí mắt như long lanh những giọt lệ cảm mến yêu thương. Chị khuyên tôi “Về Bạc Liêu em hãy cố gắng học hành, sống
phải có hiếu với mẹ cha, thương yêu anh, chị, em trong gia đình, lễ phép với bà
con lối xóm và nhất là đừng quên đi chùa lạy Phật, đọc kinh, nếu có chùa gần
nhà là tiện nhất. Em nên đến thường xuyên”. Chị còn nói "Khi nào có dịp về Vĩnh Bình, em nhớ
ghé nhà chị, hoặc gửi thư thăm chị nhé! Riêng chị, trong tương lai nếu đủ cơ
duyên có lẽ chị sẽ xuất gia. Em nhớ niệm Phật Di Đà mỗi đêm trước khi đi ngủ
hoặc niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để Phật phò hộ cho mình”.
Từ đó đến nay tôi
chưa có lần về lại chốn xưa, không biết giờ nầy chị đã xuất gia hay còn ở dưới
mái gia đình, tôi tin tưởng rằng, chị luôn giữ vững niềm tín, Hạnh, Nguyện, bồ
đề tâm kiên cố, cho dù chị chưa xuất gia để trở thành bậc Giáo thụ Thiện tri
thức đi nữa. Chắc chắn hiện nay chị vẫn là người Phật tử thuần thành, một trong
những người Ngoại hộ Thiện tri thức, một Đàn việt thiện tâm, góp phần hưng long
cho Phật Đạo để xiển dương Chính pháp. Câu chuyện thật trên đây, là những kỷ
niệm nhỏ của tuổi thơ. Nhưng mãi ghi nhớ trong tôi suốt cả cuộc đời tu hành.
Tôi muốn nói lên tiếng nói cảm ơn chị...
Nhờ chị mà em nay đã và đang là kẻ
xuất gia, đang dấn thân trên con đường giải thoát. Em đang mặc chiếc áo nâu
sồng, chiếc áo của Như Lai, ở trong toà nhà Như Lai, đang “Tác Như Lai Sứ, Hành
Như Lai Sự”. Thưa chị, Em đang là Sứ giả của Như Lai, đang đi trên con đường
tìm chân lý bằng một tấm lòng Chánh tín để thấu hiểu Chánh pháp nhằm phụng sự
cho Chánh Đạo. Hôm nay ngồi ghi lại những trang hồi ký, tựa đề “Hồi ký 26 Năm
lưu đày” nên ít nhiều phải lược sơ về tiểu sử của mình trong đó có những bước
khởi đầu của cuộc đời tu học, ắt hẳn em không quên chị và em tưởng chừng như
chị đang ngồi trước mặt của em đây! Em cố nhớ lại đầy đủ những lời chân tình
chị khuyên bảo, và cố hình dung chiếc áo tràng màu nâu sẫm mà chị thường mặc
trong những ngày đi chùa lễ Phật, trông rất dịu hiền và mỗi khi chị cầm tay em
dẫn đi trên con đường mòn sỏi đá năm xưa…
Trong thời gian trở về cố quán Bạc Liêu, tôi còn nhớ, song
thân tôi thỉnh thoảng đưa tôi đến Thánh thất Cao Đài Bạc Liêu trong những ngày
lễ lạc, cúng bái. Cha tôi dạy đọc kinh, nhưng, tôi lại thích tham gia sinh hoạt
trong nhóm gia đình Phật tử. Tôi rất thích đội chiếc nón hướng đạo. Lúc đó tôi
cho là đội chiếc nón ấy trông vừa đẹp, vừa hiền. Tôi thường đến chùa lạy Phật,
đọc kinh hay đi lạy sám hối trong những ngày Sóc, Vọng. Tôi vừa học giáo lý tại
chùa, vừa đi học chữ phổ thông bên ngoài. Tôi học rất chăm giỏi, thường xuyên
phải đạt từ hạng nhất, kém lắm là hạng ba của mỗi tháng học và luôn được lĩnh
phần thưởng cuối mỗi năm. Tôi rất kén chọn bạn để tiếp giao, để trao đổi việc
học hành.
Túc phúc thay! Duyên lành đến, tôi đã Quy y Tam Bảo và chẳng bao lâu
sau đó, tôi xin phép mẹ cha được thí phát xuất gia, cắt ái từ thân và kể từ đây
chính thức cuộc đời tôi bước sang một trang mới "Một con đường đầy hương hoa của đạo giác ngộ giải thoát".
Sự tu hành của tôi rất tinh tấn tôi đã được tham dự nhiều khoá học Phật và kiết
hạ an cư hàng năm, tham dự liên tiếp mấy khoá huấn luyện trụ trì từ Bạc Liêu
cho đến Sóc Trăng, được nhiều cao tăng thiền đức chỉ giáo. Tôi thọ giới Sa di
năm 1972 tại chùa Long Phước Bạc Liêu, lúc ấy Hòa Thượng Thích Đổng Minh còn
mặc áo “Thiên Sam Nâu”. Ngài từ Nha Trang Sài Gòn đến Bạc Liêu được cung thỉnh
làm Đệ nhất Tôn chứng và tôi thọ “Cụ Túc Giới” tại giới đàn “Thiện Hoa” nơi Tổ
Đình Chùa Ấn Quang năm 1977 do Hòa Thượng Thích Trí Thủ, nguyên Viện Trưởng
Viện Hóa Đạo làm đàn chủ và Đại lão Hoà Thượng Thích Hành Trụ đương kiêm phó
Tăng Thống, (Tức Sa Môn Lê Phước Bình ) làm Chứng minh Đạo sư.
Nói tóm lại, trong thời gian tu học, tôi được bổ nhiệm về
làm trụ trì tại ngôi chùa Vĩnh Bình, lúc tuổi rất còn trẻ chỉ 17 tuổi thôi, cho
nên sự thông hiểu kinh, luật luận của tôi còn hạn chế. Tôi làm trụ trì, nhưng
chỉ là chú Sa di, chứ lúc đó tôi chưa đủ tuổi thọ Tỳ Khưu Giới, ngôi chùa tôi
trụ trì toạ lạc tại ấp Cái Dầy, xã Châu hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Bởi vì còn quá trẻ cho nên huynh đệ hay gọi tôi là "Tu sĩ sữa”, còn đồng
bào phật tử xa gần họ gọi tôi đủ cách “có người gọi bằng huynh, có người gọi
bằng thầy, có người gọi bằng ông đạo và có người lại gọi bằng cậu, bằng con,
bằng cháu nữa!”. Tôi từng bước điều chỉnh một cách khéo léo và tế nhị, để mọi
người thống nhất cách xưng hô.
Bước đầu về chùa, tôi vừa tu, vừa mở trường dạy
học và còn phải tiếp tục học phổ thông cho đến khi tốt nghiệp. Sau đó vì nhu cầu
thiết thực của địa phương, tôi bắt đầu tham dự khoá 18 tháng Nam Y Dược và châm
cứu do Đông y dược sĩ kiêm Châm cứu sư Trần Bá Lân nhiệt tâm truyền dạy. Khi
mãn khóa học tôi trực tiếp điều hành phòng mạch hốt thuốc Nam và châm cứu tại
Chùa Vĩnh Bình cùng với các môn đệ để điều trị bệnh giúp cho đồng bào, phật tử
xa gần. Song song tôi còn được mời phụ trách cả ngôi chùa Vĩnh Bữu tại ấp Trà
Văn xã Châu Hưng. Ngoài ra có thiện duyên được Hòa Thượng Thích Thiện Định chùa
Lộc Hòa tại huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng ngỏ lời nhận làm Trưởng tử nối
nghiệp truyền thừa, lại vừa Cố vấn và hướng dẫn bộ mạch Đông y - Châm cứu cho
Đại Đức Thích Thiện Tâm là Huynh đệ của tôi đang trụ trì tại chùa Khánh Lâm, xã
Tuân Tức nữa!
Tôi đang bận rộn công việc Phật sự liên miên thì nhận thêm quyết
định phân công của Hòa Thượng Thích Trí Đức đến khai mở phòng thuốc Nam, Châm
cứu và giảng dạy giáo lý hằng tuần cho quý Phật tử tại chùa Từ Quang ấp 1 Cây
Gừa, xã Thạnh Bình, huyện Giá Rai tỉnh Minh Hải. Chính hoàn cảnh ấy tôi phải
đình hoãn học phổ thông nên không thể lên thành phố tiếp tục việc học được và
tôi bắt đầu học hàm thụ tại Trung tâm giáo Dục “VÌ SAO” ở Sài gòn. Tôi học
chuyên khoa Báo chí, bài vở được nhà trường gởi về tận chùa rất đầy đủ qua
đường dây Bưu điện có cả những tài liệu chuyên nghiệp của các ký giả và phóng
viên quốc tế.
Hôm nay sẵn tiện trên trang mở đầu giới thiệu sơ lược về tiểu sử
bản thân, tôi xin trần thuật lại tâm tư của mình về một sự việc rất ấn tượng diễn
ra khoảng một vài năm trước năm 1975 có liên quan đến tôi trong thời gian làm
trụ trì tại chùa Vĩnh Bình như sau: Vào thời điểm tôi đang học hàm thụ về khoa
báo chí cho nên tôi thường xuyên đọc các loại báo để cập nhật phương pháp viết
bản tin, ký sự, phóng sự điều tra, phóng tác, tùy bút, bình luận…
Một hôm tôi đọc đến mục giới thiệu các tác phẩm mới vừa xuất
bản, tôi chợt nhận ra 1 tập thơ với tựa đề “Khói Lửa 20” của nhà thơ Lý Thụy Ý sẽ
dành tặng miễn phí ưu tiên cho một số đọc giả biên thư về sớm nhất theo địa
chỉ. Thật là “thiên tải giai kỳ” dịp may hiếm có, tôi vội vàng biên thư ngay
hỏi xin tác giả. Lúc ấy thật tình tôi không biết nhà thơ là nam hay nữ để gọi
cho đúng cách xưng hô, vì chữ lót giữa nếu là “Thị” thì dễ nhận, còn chữ “Thụy”
thì khó phân biệt, bởi nam giới cũng có nhiều người dùng chữ lót nầy. Tôi phải
đắn đo suy nghĩ để chọn từ cho thích hợp, cho dù tác giả thuộc giới tính nào
cũng không bị sơ xuất nên tôi chỉ viết chung chung là: “Tình cờ đọc được tin trên báo, tôi thấy nhà thơ giới thiệu tập thơ tựa
đề “Khói Lửa 20” vừa mới xuất bản. Đặc biệt sẽ dành tặng ưu tiên cho những độc
giả biên thư về sớm nhất, tôi là nhà tu nhưng rất hâm mộ “Thi ca”. Nay mấy lời
này xin nhà thơ hoan hỷ thi ân cho tôi 1 thi tập để học những thi pháp, tham khảo
những thi tứ, ngâm vịnh những thi khúc và thưởng thức những thi vị của thi
nhân. Xin kính gởi đến thi sĩ lời chân thành cảm ơn và cầu chúc mọi sự an lành,
muôn điều phúc lạc”.
Tác giả nhận được thư của tôi không biết có buồn cười
họăc cảm thông cho một ông Sư vụng về hay không mà khoảng 1 tháng sau tôi nhận
được tập thơ của tác giả gửi về tới tận chùa. Lúc nầy vì quá bận nhiều công tác
Phật sự nên tôi vô tình không viết thư cảm ơn hồi âm đến tác giả. Đây là một
điều thiếu sót đáng trách, mãi hơn 2 tháng sau tôi tiếp tục nhận thêm 1 tập thơ
nữa. Lúc bấy giờ tôi rất lấy làm xấu hổ về sự khuyết điểm của mình nên không
chần chờ thêm phút giây nào nữa cả, tôi bèn biên thư hồi âm và xin lỗi ngay.
Tôi hy vọng tác giả sẽ nhận được sự hồi âm của mình, chỉ bấy nhiêu thôi tôi
thấy tác giả là người rất đáng mến mộ và trân trọng.
Thời gian hơn 30 năm sau,
cho đến khi tôi được thuyên chuyển từ nhà tù Xuân Phước tỉnh Phú Khánh về trại
giam Z 30A huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, tôi có cơ duyên tiếp xúc với 2 nhà
văn, Bác Doãn Quốc Sĩ và Ông Hoàng Hãi Thủy. Hai vị có giới thiệu nên tôi mới
nhận ra tác giả Lý Thụy Ý của tập thơ “Khói Lửa 20” mà hồn thơ tôi rất tâm đắc
là một nữ thi sĩ tài hoa. Hôm nay ngồi tại tư gia ghi lại mấy dòng hồi ký nầy
chứ không phải tại mái chùa xưa nơi đón nhận tập thơ thuở trước. Lòng tôi cảm
thấy man mác bồi hồi một nỗi niềm hoài cảm với những thi sĩ có những vần thơ
dạt dào rung động ngày xưa… của một thời đã qua. Cho dù tôi chưa có dịp tiếp
kiến với nữ thi sĩ, cũng như hơn một phần tư thế kỷ tôi bị giam hãm trong chốn
lao tù, thì tập thơ hay có nhiều kỷ niệm kia cũng âm thầm, buồn lặng mai một
trôi theo dòng thời gian nay không biết đã về đâu!?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét